Nhu cầu cao nhưng khó tiêu thụ
Gần đây, tại TP Hồ Chí Minh đang rộ lên phong trào “tẩy chay” thực phẩm bẩn và đổ xô săn tìm các thực phẩm hữu cơ, thực phẩm sạch. Theo đó, hàng loạt hệ thống phân phối, cửa hàng thực phẩm hữu cơ mọc lên như nấm như: hệ thống phân phối thực phẩm hữu cơ Organica, siêu thị mini sản phẩm hữu cơ Ta Hoa Sen Ta, thực phẩm hữu cơ Organica, Happy Trade – Cộng đồng thực phẩm hữu cơ…
Ngoài những hệ thống phân phối thực phẩm hữu cơ quy mô lớn, các cửa hàng thực phẩm hữu cơ cũng đua nhau chen chân trên thị trường. Với bảng hiệu ghi rõ dòng chữ thực phẩm organic, phân phối thực phẩm organica, sản phẩm 100% hữu cơ, sản phẩm sạch… đã thu hút một lượng lớn người tiêu dùng tới mua sắm.
Theo khảo sát tại các cửa hàng bán rau hữu cơ trên địa bàn TP Hồ Chí Minh, đa phần các loại rau hữu cơ đắt hơn rau thường từ 30.000 – 50.000 đồng/kg, thực phẩm tươi sống cũng neo ở mức giá cao hơn sản phẩm bình thường từ 100.000 – 150.000 đồng/kg.
Một nhân viên tại cửa hàng thực phẩm hữu cơ trên đường Cách Mạng Tháng 8 (quận Tân Bình) chỉ vào những bịch rau xanh ghi xuất xứ Lâm Đồng cho biết: "Cửa hàng liên kết trực tiếp với những trang trại rau xanh hữu cơ ở Đơn Dương, Lâm Đồng cho nên người tiêu dùng khi mua rau xanh sẽ hoàn toàn yên tâm về chất lượng. Giá rau hữu cơ cao hơn rau bình thường, song bù lại người tiêu dùng mua được sự an toàn”.
Thực phẩm hữu cơ (ogranic) là những loại thực phẩm được sản xuất bằng phương thức và tiêu chuẩn của nông nghiệp hữu cơ. Tiêu chuẩn về thực phẩm hữu cơ là khác nhau trên thế giới. Tuy nhiên, nông nghiệp hữu cơ nói chung luôn hướng đến nuôi trồng thúc đẩy cân bằng sinh thái, đa dạng và bảo tồn đa dạng sinh học. Trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ hạn chế sử dụng một số loại thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và phân bón tổng hợp. Thực phẩm hữu cơ cũng không được phép xử lý bằng chiếu xạ, dung môi công nghiệp hoặc các chất phụ gia thực phẩm tổng hợp.
Mặc dù ủng hộ thực phẩm sạch, giá cao trên thị trường nhưng người tiêu dùng chưa thật sự an tâm. Chị Lê Thu Thanh (ngụ ở quận 1) cho biết, chị rất thích mua thực phẩm hữu cơ để đảm bảo bữa ăn cho gia đình. Tuy nhiên, chị Thanh đang mua thực phẩm sạch, thực phẩm hữu cơ bằng... niềm tin từ sự khẳng định chất lượng của người bán. Bởi chất lượng ra sao người tiêu dùng không rõ và không được kiểm chứng. “Để có địa chỉ uy tín về các loại thực phẩm sạch, thực phẩm hữu cơ tôi thường tìm hiểu sàng lọc và lựa chọn những địa chỉ theo truyền thông công bố hoặc thông qua bạn bè, đồng nghiệp giới thiệu”, chị Thanh cho biết thêm.
Sợ rau xanh chứa nhiều thuốc bảo vệ thực vật, thực phẩm tươi sống tồn dư kháng sinh cao… người tiêu dùng đang chật vật đi tìm thực phẩm sạch, thực phẩm hữu cơ. Tuy nhiên, chất lượng thực phẩm hữu cơ trên thị trường hiện nay chưa có những công bố rõ ràng về chất lượng, thậm chí rất nhiều trường hợp gắn mác thực phẩm hữu cơ nhưng... chưa có cơ quan nào chứng nhận.
Ông Bùi Sơn Công, Ủy viên Ban chấp hành Hiệp hội nông nghiệp hữu cơ Việt Nam, cho biết thực phẩm hữu cơ là xu thế tiêu dùng hiện nay. Người tiêu dùng ở các thành phố lớn chấp nhận trả chi phí cao để mua được các sản phẩm hữu cơ, thực phẩm sạch, tuy nhiên có không ít người tiêu dùng bị khủng hoảng niềm tin về chất lượng các loại thực phẩm hiện nay nên sản phẩm hữu cơ cũng đang gặp không ít khó khăn.
Cùng kết nối 3 "nhà"
Theo nhìn nhận của bà Đinh Thị Mỹ Loan, Chủ tịch Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam, thị trường thực phẩm hữu cơ có nhu cầu tiêu thụ cao, song chậm phát triển vì khó truy xuất nguồn gốc, khó tìm hiểu quy trình sản xuất, thiếu tiêu chuẩn chất lượng. Người tiêu dùng không kiểm soát được các khâu sản xuất, chế biến, bảo quản, vận chuyển... sản phẩm sạch, hữu cơ. Mặt khác, các nhà bán lẻ còn đang gặp khó khăn do nguồn cung thực phẩm hữu cơ thiếu ổn định, thiếu doanh nghiệp sản xuất bài bản, hoặc “vắng bóng” những cơ sở có uy tín để cung cấp nguồn hàng ổn định trong thời gian dài.
Hiện nay, Việt Nam là một trong 170 quốc gia có mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ trên thế giới. Từ năm 2007 - 2016, diện tích canh tác và nuôi trồng hữu cơ trên cả nước tăng từ 12.120 ha lên 76.666 ha, nhanh hơn tốc độ trung bình toàn cầu. Với diện tích canh tác và nuôi trồng hữu cơ tăng như vậy và nhu cầu tiêu thụ nông sản sạch, nông sản hữu cơ của người tiêu dùng ngày càng lớn, thế nhưng nghịch lý ở chỗ thị trường bán lẻ nông sản sạch, nông sản hữu cơ chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số lượng tiêu thụ nông sản, cũng như thực phẩm hàng ngày của người tiêu dùng. Vì vậy, các nhà chức năng cần có một quy hoạch tổng thể để phát triển sản phẩm này.
“Việt Nam sản xuất được sản phẩm hữu cơ, nhưng vấn đề kết nối từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng còn khá khó khăn. Đây chính là lý do tại sao liên kết tiêu dùng của thực phẩm hữu cơ trong thời gian qua chưa thành công. Vì vậy, trước mắt cần đẩy mạnh liên kết giữa 3 nhà: Nhà nước, nhà nông (nhà sản xuất) và nhà phân phối để có nguồn hàng ổn định, sản phẩm chất lượng tới tay người tiêu dùng. Trong đó, các nhà bán lẻ, nhà phân phối là động lực để nhà sản xuất đầu tư đưa sản phẩm hữu cơ về giá trị thật và phổ biến hơn trên thị trường. Bên cạnh đó, nhà quản lý, nhà nước cần kiểm soát chặt vấn đề an toàn thực phẩm từ khâu sản xuất đến khâu phân phối. Các nhà sản xuất, nhà doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan nhà nước để việc kiểm tra, kiểm soát được minh bạch, công khai với người tiêu dùng”, bà Đinh Thị Mỹ Loan cho biết thêm.
Ngoài ra, theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Việt Nam chưa xây dựng quy chuẩn chứng nhận sản phẩm hữu cơ, doanh nghiệp đang lấy tiêu chuẩn từ một số nước. Vì vậy sắp tới, ngành nông nghiệp sẽ xây dựng một giá trị chất lượng chuẩn cho sản phẩm hữu cơ, tạo điều kiện nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam, tạo niềm tin cho người sản xuất, doanh nghiệp và đặc biệt là người tiêu dùng. Còn về phía các cơ quan quản lý nhà nước, cũng cần đưa ra những chuẩn chung (tiêu chí) về chất lượng để người tiêu dùng có cơ sở để lựa chọn sản phẩm hữu cơ chất lượng.