Chủ động ứng phó
Theo nhận định của Tổng cục Thủy lợi (Bộ NN&PTNT) về tình hình hạn hán, xâm nhập mặn mùa khô năm 2017, mặc dù xâm nhập mặn ít gay gắt hơn mùa khô năm 2015 - 2016 nhưng vẫn cao hơn trung bình nhiều năm. Độ mặn cao nhất có khả năng lên đến 34,2g/l và xuất hiện vào tháng 2, tháng 3/2017. Chính vì vậy, ngay từ đầu mùa khô, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã chủ động triển khai các phương án chống hạn, trữ nước ngọt phục vụ sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt.
Công trình cống Sông Kiên góp phần ngăn mặn, giữ ngọt, phục vụ sản xuất nông nghiệp tại tỉnh Kiên Giang. |
Tỉnh Kiên Giang có hơn 200 km bờ biển nên xác định vùng chịu ảnh hưởng hạn, mặn xâm nhập gồm: vùng sản xuất nông nghiệp ven biển Rạch Giá - Hà Tiên, ven sông Cái Lớn và Cái Bé, vùng U Minh Thượng; vùng đất rừng vườn Quốc gia Phú Quốc, vườn Quốc gia U Minh Thượng và các lâm phần rừng trồng. Không chỉ khu vực sản xuất mà nhiều khu vực trung tâm như: Thành phố Rạch Giá, huyện Hòn Đất, Châu Thành, An Biên, An Minh... chỉ cách biển vài km, rất dễ bị mặn bủa vây.
Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý cho tỉnh Long An đầu tư hơn 490 tỷ đồng để xây dựng hồ chứa nước ngọt phục vụ sản xuất, nước sinh hoạt chủ yếu cho người dân vùng Đồng Tháp Mười. Tỉnh Long An xác định đây là dự án trọng điểm, cần đầu tư cấp bách, chống hạn ứng phó với biến đổi khí hậu trên địa bàn tỉnh. Dự kiến đầu năm 2018, công trình này sẽ hoàn thành và đưa vào khai thác. Được biết, ngân sách Trung ương hỗ trợ khoảng 390 tỷ đồng để xây dựng công trình; ngân sách địa phương hơn 100 tỷ đồng phục vụ giải mặt bằng, đền bù và định cư cho người dân bị thu hồi đất. |
Ông Nguyễn Văn Tâm, Giám đốc Sở NN&PTNT cho biết, rút kinh nghiệm mùa khô 2015 - 2016, để đảm bảo nguồn nước phục vụ sản xuất vụ lúa hè thu 2017, tỉnh đã đẩy nhanh tiến độ thi công, lắp đặt, vận hành cửa cống mới sông Kiên, Kênh Cụt và hệ thống cống trên tuyến đê biển, đê bao Ô Môn - Xà No. Đồng thời các địa phương tiếp tục giữ lại các đập tạm đã đắp trong mùa khô 2015 - 2016, đến khi vào mùa mưa thì chỉ tháo dỡ một phần đập và mùa khô 2017 gia cố lại để bảo vệ sản xuất nông nghiệp. Do vậy, hiện nay đã có hơn 276 bờ đập được gia cố, đắp mới để ngăn mặn, giữ ngọt với tổng kinh phí hơn 40 tỷ đồng.
Ngành nông nghiệp tỉnh Kiên Giang đã phối hợp với đơn vị liên quan theo dõi sát tình hình thời tiết, diễn biến mặn trên những tuyến kênh, sông chính để kịp thời thông báo tới địa phương và nhân dân chủ động ứng phó, sản xuất. Địa phương cũng phối hợp với tỉnh An Giang thống nhất lịch lấy nước luân phiên trong vùng Tứ giác Long Xuyên, đảm bảo tạo nguồn nước tưới tiêu phục vụ sản xuất. Ngoài ra, lịch xuống giống vụ lúa hè thu 2017 được xây dựng phù hợp với đặc điểm nguồn nước của từng vùng, tiểu vùng sản xuất để phòng thiếu nước và xâm nhập mặn.
Đối với đảm bảo nguồn nước sinh hoạt, tỉnh Kiên Giang đã đầu tư hơn 20 tỷ đồng khoan một số giếng công suất 10 - 20 m3/giờ ở một số khu vực để tạo thêm nguồn nước bổ sung cho các trạm cấp nước đang hoạt động nhưng thiếu nguồn nước khai thác; kéo dài tuyến ống từ trạm cấp nước đến khu vực dân cư sinh sống bị ảnh hưởng hạn mặn; duy tu, sửa chữa trạm cấp nước xuống cấp, hư hỏng và xây dựng mới một số trạm khác trong vùng ảnh hưởng... Đồng thời, địa phương chuẩn bị phương án, kế hoạch cấp nước, đảm bảo nước sinh hoạt cho người dân vùng nông thôn, nhất là khu vực khó khăn, vùng không có tuyến ống nước, giao thông không thuận tiện. Phương tiện vận chuyển nước từ đất liền ra các đảo có cư dân sinh sống được chuẩn bị phòng khi giếng khoan, hồ chứa cạn kiệt, nhất là giai đoạn cao điểm mùa khô.
Ông Cao Văn Trọng, Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre: Chủ động đắp đập ngăn mặn Người dân và các doanh nghiệp sẽ còn phải sống chung với hạn mặn đến năm 2022. Khi đó, sông Ba Lai với dự án thủy lợi Bắc Bến Tre mới hoàn thành 5 cống ngăn mặn và dự án thủy lợi Nam Bến Tre hoàn thành 3 cống. Trước mắt, mùa khô 2016 - 2017, rút kinh nghiệm năm qua, tỉnh sẽ chủ động đối phó với hạn mặn hơn, bằng cách duy trì đập tạm trên sông Cái Cỏ ở xã Quới Thành, huyện Châu Thành là nơi cung cấp nước ngọt thô cho Trạm bơm Cái Cỏ với công suất 30.000 m3/ngày đêm; bổ sung nước ngọt thô cho nhà máy nước Sơn Đông có công suất 32.000 m3/ngày đêm là nhà máy chính cung cấp nước sản xuất và sinh hoạt cho nhiều huyện, thành phố, các khu, cụm công nghiệp trong tỉnh. Ngoài đập tạm Cái Cỏ, tỉnh cũng đã xác định nhiều con đập khác nếu dự báo nước mặn lên cao, tỉnh sẽ cho đắp ngay để ngăn mặn và trữ nước ngọt phục vụ sản xuất. |
Còn tại tỉnh Bạc Liêu, qua ghi nhận, từ đầu tháng 2 đến nay, thời tiết nắng nóng trên địa bàn đang tăng dần, kèm theo gió mạnh, triều cường lên cao, nước mặn đang lấn sâu vào vùng ngọt phía Bắc quốc lộ 1A. Hiện độ mặn tại tuyến kênh xã Ninh Quới (huyện Hồng Dân) đã vượt 1 phần nghìn; mực nước trên các tuyến kênh của 2 huyện Phước Long và Hồng Dân đang dâng cao, dao động từ 0,35 m - 0,50 m.
Trước diễn biến trên, địa phương đã tập trung triển khai nhiều giải pháp nhằm bảo vệ hơn 40.000 ha lúa, hàng nghìn ha lúa thu đông (lúa Tài Nguyên) xuống giống trễ và hơn 1.000 ha rau, đậu thực phẩm đang sinh trưởng trên đồng. Bên cạnh đó, tỉnh Bạc Liêu đã phối hợp với tỉnh Cà Mau và tỉnh Sóc Trăng vận hành nhịp nhàng hơn 100 cống đầu mối, phân ranh mặn - ngọt, cống Đông Nàng Rền... để có thể ngăn mặn kịp thời và trữ nước ngọt.
Còn riêng đối với vùng ngọt, tỉnh Bạc Liêu đã tiến hành đắp hơn 40 đập tạm tại các huyện Phước Long, Hồng Dân và thị xã Giá Rai để ngăn mặn, giữ ngọt cho diện tích lúa đông xuân, lúa - tôm. Tỉnh phát động phong trào làm thủy lợi - thủy nông nội đồng mùa khô; khuyến cáo nhà nông chủ động dẫn nước, dự trữ vào ao hồ; đầu tư máy, thiết bị bơm nước phục vụ tưới tiêu. Đối với vùng chuyên tôm, tiếp tục đẩy mạnh đầu tư nạo vét kênh thủy lợi - thủy nông nội đồng bị bồi lắng, khai thông dòng chảy nhằm đảm bảo dẫn nguồn nước thông suốt từ các cửa biển, cửa sông đến kênh rạch, ao đầm nuôi trồng thủy sản.
Từ việc rút kinh nghiệm đối phó với hạn, mặn trong mùa khô 2016, các tỉnh, thành trong vùng ĐBSCL đã chủ động chuyển đổi diện tích đất canh tác để giảm tối đa thiệt hại. Tỉnh Tiền Giang kịp thời chỉ đạo các huyện duyên hải phía đông như Gò Công Đông, Gò Công Tây... chuyển đổi 2.500 ha đất canh tác từ 3 vụ lúa/năm sang làm 2 vụ/năm kết hợp một vụ rau màu hoặc các cây trồng khác. Đây là diện tích đất canh tác nằm ven biển, ven các đê ngăn mặn cửa sông thường phải gánh chịu hậu quả nặng nề của khô hạn và xâm nhập mặn hàng năm. Những năm hạn mặn khốc liệt, trà lúa đông xuân tại đây thường bị mất trắng. Nhờ chuyển đổi sang cơ cấu mùa vụ hợp lý, nông dân có thể xuống giống vụ đông xuân sớm, tránh được thời điểm hạn mặn vào cao điểm, giảm thiệt hại. Hiện trà lúa trên đã vào giai đoạn trổ đều và chín, không còn nhu cầu dùng nước nên không bị ảnh hưởng do thiên tai trong vụ đông xuân 2017.
Bên cạnh đó, ngay từ đầu vụ đông xuân 2016 - 2017, tỉnh tập trung lấy nước trữ trong nội đồng khu vực dự án ngọt hóa Gò Công (gồm các huyện Gò Công Đông, Gò Công Tây, thị xã Gò Công) phục vụ tưới tiêu cho 28.000 ha đất trồng lúa toàn vùng. Tranh thủ điều kiện thủy văn thuận lợi, nước mặn chưa xâm nhập sâu vào thượng lưu, trong những ngày đầu tháng 2, Công ty TNHH MTV khai thác công trình thủy lợi Tiền Giang tiếp tục lấy nước ngọt bổ cấp cho khu vực dự án qua cống Xuân Hòa góp phần tăng thêm lượng nước dồi dào phục vụ sản xuất và đời sống.
Hướng tới phát triển bền vững
Việc chủ động nguồn nước và chuyển đổi canh tác cho vùng có khả năng nhiễm mặn để hạn chế tối đa thiệt hại cho sản xuất nói trên cho thấy những nỗ lực của các tỉnh, thành vùng ĐBSCL đối phó tình hình thời tiết bất lợi trong mùa khô 2017. Tuy nhiên đó vẫn là những giải pháp cấp bách trước mắt của các địa phương, trong đó có những công trình mang tính chất tình thế, gây lãng phí nguồn ngân sách hàng năm vì chưa có hoặc chưa đầu tư đồng bộ những công trình kiểm soát mặn.
Trung tâm Giống nông nghiệp Tiền Giang khảo nghiệm giống lúa mới thích ứng biến đổi khí hậu. |
Về lâu dài, từng địa phương và toàn vùng ĐBSCL, cần có những bước đi nhằm sẵn sàng ứng phó với sự thay đổi của môi trường và tạo nền móng cho tăng trưởng bền vững. Bởi thực tế vùng ĐBSCL là một trong những vùng bị tác động nghiêm trọng bởi biến đổi khí hậu. Theo các chuyên gia, tình hình hạn hán và xâm nhập mặn từ đầu năm 2016 chính là dấu hiệu khởi đầu cho các xu hướng dài hạn về hạn hán và lũ lụt khắc nghiệt hơn.
Theo dự báo của Tổng cục Thủy lợi, mùa khô năm 2016 - 2017, tổng lượng dòng chảy sông Mê Kông về khu vực ĐBSCL tiếp tục thiếu hụt so với trung bình nhiều năm từ 15 - 35%, khả năng tương đương mùa khô năm 2014 - 2015 và cao hơn mùa khô năm 2015 - 2016. Lượng nước từ thượng nguồn về thiếu hụt so với trung bình nhiều năm có thể sẽ khiến mùa khô năm 2016 - 2017 kết thúc muộn hơn.
Ông Trần Công Thắng, Phó Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn: Cần giải pháp dài hạn, bền vững Việt Nam là một trong những nước bị tác động mạnh mẽ bởi biến đổi khí hậu. Mặc dù chính quyền địa phương và người dân đã nhận thức tốt hơn về thiên tai, biến đổi khí hậu, tăng cường các giải pháp ứng phó hạn mặn, như xây dựng hệ thống đê bao, thủy lợi, đập tạm ngăn mặn; tăng cường quan trắc, thông tin cảnh báo và truyền thông; hỗ trợ kỹ thuật, tài chính, bơm nước rửa mặn, thay đổi lịch gieo trồng; thay đổi giống lúa chịu hạn mặn, chuyển đổi đất trồng lúa sang cây trồng, vật nuôi khác... Tuy nhiên nhìn chung, các giải pháp ứng phó chỉ có hiệu quả nhất định đối với thiên tai cấp độ nhẹ. Đơn cử như đợt hạn hán và xâm nhập mặn nghiêm trọng vừa qua đã gây thiệt hại rất lớn cho các tỉnh ĐBSCL, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Vì vậy, các giải pháp ứng phó biến đổi khí hậu phải mang tính bền vững, dài hạn, liên ngành và liên vùng. |
Theo các chuyên gia, vùng ĐBSCL cần ưu tiên đầu tư triển khai sớm các dự án kiểm soát mặn phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Cụ thể là hệ thống đê sông và cửa sông lớn cần được xem xét theo hướng kiểm soát lũ và kiểm soát mặn cấp vùng, liên vùng, thậm chí toàn đồng bằng với các cống kiểm soát lũ ở vùng ngập lũ và ngăn mặn lên cao ở vùng có nguy cơ xâm nhập mặn khi nước biển dâng. Đồng thời cũng cần xem xét đầu tư các hệ thống đê sông cấp 2 ở những nơi cần thiết, trước mắt đáp ứng nhu cầu của các khu vực trữ ngọt trong vùng mặn theo quy hoạch phát triển cây trồng, vật nuôi của ngành nông nghiệp.
Theo GS.TS Tăng Đức Thắng, Viện Khoa học thủy lợi Việt Nam, cần ưu tiên đầu tư dự án các cống ngăn mặn cặp theo sông Tiền, sông Hậu để ứng phó với các trường hợp mặn xuất hiện sớm, vào sâu theo các dòng chính. Đồng thời chủ động ứng phó với tình hình mặn rút muộn hoặc mặn bất thường trong trường hợp bất lợi do vận hành thủy điện ở thượng lưu, vừa kết hợp kiểm soát mặn và ngăn triều cường gây ngập có tính tới yếu tố biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Sớm triển khai đầu tư dự án các cống trên các sông lớn như Cái Lớn, Cái Bé tại tỉnh Kiên Giang... để kiểm soát nước mùa khô, xâm nhập mặn chủ động nguồn nước ngọt cho phát triển kinh tế - xã hội.
Cần nâng cấp, hiện đại hóa các hệ thống thủy lợi hiện hữu với việc đầu tư trang thiết bị thông tin, hệ thống quan trắc tự động, quản lý điều hành hệ thống một cách chủ động. Từng bước liên kết các dự án thủy lợi riêng lẻ như hiện nay thành những dự án lớn hơn, đáp ứng được khả năng thích nghi với biến đổi dần của khí hậu, đặc biệt các dự án thủy lợi ven biển với các dự án thủy lợi phía nội đồng. Ví dụ như hệ thống thủy lợi Gò Công - Bảo Định (Tiền Giang), dự án Ba Lai với các dự án vùng Mỏ Cày (Bến Tre), dự án Nam Măng Thít (Vĩnh Long) với các dự án phía trên sông Măng Thít, Tiếp Nhật - Kế Sách (Sóc Trăng)...
Tình trạng xói lở ở các tỉnh vùng ĐBSCL cũng diễn biến khá phức tạp trong thời gian qua, do đó việc quy hoạch các tuyến đê biển, đê cửa sông cần phải tính đến các ảnh hưởng gia tăng của xói lở, bố trí hành lang ngoài đê hợp lý để khai thác bảo vệ đê bằng các giải pháp sinh thái, rừng ngập mặn thay vì cứng hóa trước tác động suy giảm phù sa và biến đổi khí hậu.
Ông Lê Quốc Doanh, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT: Tăng cường giám sát, dự báo Bộ NN&PTNT giao nhiệm vụ cho các đơn vị giám sát, dự báo mặn, thông tin thường xuyên, kịp thời đến các cấp các ngành khu vực ĐBSCL. Việc này phục vụ chỉ đạo điều hành hệ thống thủy lợi, đảm bảo cấp, thoát nước cho sản xuất, dân sinh cũng như vận hành hệ thống thủy lợi phòng chống hạn, xâm nhập mặn hiệu quả. Riêng Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn sẽ cập nhật, có báo cáo chi tiết, cụ thể tình hình một cách sớm nhất và rộng khắp. Từ những kinh nghiệm sản xuất năm 2016, ngành nông nghiệp sẽ có kịch bản cụ thể đối phó với hạn, mặn trong thời gian tới. |
Các giải pháp thủy lợi nói trên được triển khai sẽ giúp các địa phương vùng ĐBSCL chủ động hơn trong việc xây dựng các dự án điều tiết, kiểm soát mặn với các vùng dự án khác nhau phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, chủ động chuyển đổi cây trồng vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao. Đặc biệt là phù hợp với quy hoạch của ngành nông nghiệp vì trước thách thức của biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn đe dọa trực tiếp đến vùng ĐBSCL, Bộ NN&PTNT đã xây dựng kế hoạch hành động thực hiện liên kết phát triển nông nghiệp, nông thôn vùng giai đoạn 2016 - 2020.
Bên cạnh đó, cần phải có quy hoạch hệ thống hồ điều tiết các tiểu vùng ĐBSCL nhằm trữ nước ngọt, cung cấp nước sinh hoạt cho người dân và thực hiện điều tiết nước cho sản xuất, kết hợp cung cấp nước một phần cho vùng mặn.