Theo Bộ Công Thương, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 9 tăng 2,3% so với tháng 8 và tăng 3,8% so với cùng kỳ. Trong đó: ngành khai khoáng giảm 0,1% so với tháng trước và giảm 5,7% so với cùng kỳ; ngành chế biến, chế tạo tăng 3,2% so với tháng trước và tăng 4,6% so với cùng kỳ; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 2,5% so với tháng trước và tăng 5,5% so với cùng kỳ.
Bộ Công Thương nhận định, mặc dù sản xuất công nghiệp tháng 9 có sự khởi sắc và đang dần khôi phục tuy nhiên vẫn còn chậm do ảnh hưởng của thị trường tiêu thụ. Dự báo từ tháng 10/2020, nếu đà kiểm soát dịch bệnh được duy trì như hiện nay, sản xuất sẽ tăng trưởng cao hơn để chuẩn bị cho các tháng tiêu thụ cao điểm cuối năm.
Theo Bộ Công Thương, một số ngành công nghiệp chế biến, chế tạo sản xuất tháng 9 đã tăng so với tháng 8: sản xuất dệt tăng 2%; sản xuất trang phục tăng 13,7%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 4,5%; sản xuất chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 5,4%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 1,8%; sản xuất kim loại tăng 6,4%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 4,4%; sản xuất xe có động cơ tăng 3,4%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 1,8%.
Tính chung 9 tháng năm 2020, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn so với mức tăng 9,6% của cùng kỳ năm 2019 và là mức tăng thấp nhất trong nhiều năm qua. (Tốc độ tăng chỉ số sản xuất công nghiệp 9 tháng các năm 2012-2020 lần lượt là: 6,1%; 5,3%; 6,8%; 9,9%; 7,1%; 8,8%;10,6%; 9,6%; 2,3%).
Bất chấp dịch COVID-19, một số ngành công nghiệp có mức tăng trưởng tốt. Trong 9 tháng, ngành Dầu khí trong đó Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) là đơn vị nòng cốt đã cơ bản hoàn thành tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ kế hoạch đề ra trong 9 tháng đầu năm. Tổng sản lượng khai thác quy dầu 9 tháng ước đạt 15,68 triệu tấn, vượt 5,1% kế hoạch 9 tháng và bằng 69,6% kế hoạch năm.
Đối với ngành Than, sản lượng than sạch tháng 9, ước đạt 3,76 triệu tấn, tăng 5,3% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2020, sản lượng than sạch ước đạt 36,21 triệu tấn, tăng 4,9% so với cùng kỳ.
Do tác động của dịch COVID-19, nhiều ngành công nghiệp của Hàn Quốc, Nhật Bản (trong đó có ngành công nghiệp thép, luyện kim) tiếp tục cắt giảm sản lượng, dẫn tới nhu cầu nhiên liệu than giảm. Điều này tác động tiêu cực tới việc thực hiện kế hoạch xuất khẩu than năm 2020 của Việt Nam sang các thị trường truyền thống này. Ngoài ra, do tác động của dịch COVID-19, các cảng xuất nhập than của nhiều quốc gia đã tăng cường các biện pháp phòng dịch (kiểm dịch, cách ly…) đối với các phương tiện thủy/thuyền viên đến từ các vùng có dịch (trong đó có Việt Nam); đồng thời, nhiều tàu than xuất nhập vào Việt Nam cũng phải thực hiện các biện pháp phòng dịch theo quy định nên sẽ kéo dài thời gian thông quan trước khi có thể tiến hành làm hàng, dẫn đến tăng chi phí trong quá trình thực hiện xuất khẩu than.
Một số nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như dệt may, da giày thời gian qua cũng gặp nhiều khó khăn. Tính chung 9 tháng, vải dệt từ sợi tự nhiên ước đạt 481,2 triệu m2, tăng 2,9%; sản xuất vải dệt từ sợi tổng hợp và sợi nhân tạo ước đạt 730,9 triệu m2, giảm 8,5%; quần áo mặc thường ước đạt 3.266,9 triệu cái, giảm 6,2% so với cùng kỳ. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt và may mặc 9 tháng ước đạt 22,06 tỷ USD, giảm 10,3% so với cùng kỳ.
Dưới tác động của dịch COVID-19, dệt may là một trong những ngành hàng chịu thiệt hại trực tiếp lớn nhất cùng với ngành du lịch, hàng không, da giày. Tình hình sản xuất, xuất khẩu ngành dệt may vẫn gặp nhiều khó khăn. Tổng cầu dệt may thế giới năm 2020 sụt giảm mạnh. Năm 2019, kim ngạch nhập khẩu dệt may thế giới là 775 tỷ USD, do COVID-19 diễn biến phức tạp, kéo dài, ước tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2020 đạt 600 – 640 tỷ USD, giảm 15-20% so với 2019, thậm chí có thể giảm tới 25%.
Theo thông lệ hàng năm, thời điểm hiện tại các doanh nghiệp đều có đơn hàng đến cuối năm và thậm chí nửa đầu năm sau. Tuy nhiên, nhu cầu chững lại do dịch Covid-19 khi người tiêu dùng trên thế giới chỉ quan tâm đến đồ dùng thiết yếu và phòng chống dịch bệnh, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện chỉ nhận đơn hàng theo thông tin từng tháng, thậm chí từng tuần. Thực tế, các mặt hàng truyền thống, thế mạnh của nhiều doanh nghiệp may Việt Nam là veston, sơ mi cao cấp hầu như chưa có đơn hàng cho quý cuối năm.
Trong bối cảnh khó khăn như nêu trên, Bộ Công Thương đã tích cực làm việc trực tiếp với các Bộ, ngành, đơn vị liên quan, đồng thời làm việc với Hiệp hội Dệt May Việt Nam, Tập đoàn Dệt May Việt Nam, các doanh nghiệp dệt may, các đơn vị tư vấn, chuyển giao công nghệ, kiểm nghiệm, chứng nhận chất lượng, các đơn vị phân phối để tạo điều kiện, khuyến khích, kết nối các doanh nghiệp chuyển đổi từ dệt may quần áo, sang dệt may khẩu trang vải. Nhiều doanh nghiệp dệt may đã chuyển sang sản xuất khẩu trang vải kháng giọt bắn – kháng khuẩn, khẩu trang vải kháng khuẩn, khẩu trang vải thông thường, đáp ứng đầy đủ nhu cầu phòng chống dịch trong nước, bình ổn thị trường.
Đồng thời, Bộ Công Thương đã giới thiệu, hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu khẩu trang vải, tạo công ăn việc làm cho lao động dệt may, giảm bớt khó khăn trong giai đoạn thiếu đơn hàng xuất khẩu quần áo.
Về sản xuất của ngành da giày, chỉ số sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tháng 9 tăng 4,5% so với tháng trước, nhưng giảm 0,4% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm giảm 3,8% so với cùng kỳ năm 2019. Cũng giống như ngành dệt may, ngành sản xuất, xuất khẩu giày dép là ngành chịu tác động tiêu cực do tác động của dịch bệnh Covid-19. Kim ngạch xuất khẩu giày dép các loại 9 tháng đầu năm ước đạt 12,08 tỷ USD, giảm 8,8% so với cùng kỳ năm 2019.
Từ nay đến cuối năm, dự báo đầu ra của ngành da giày sẽ tiếp tục gặp khó, bởi phụ thuộc nhiều vào khả năng khống chế dịch của Mỹ và Châu Âu. Động lực lớn nhất cho tăng trưởng của ngành chính là Hiệp định thương mại tự do EVFTA có hiệu lực. Để có thể tận dụng cơ hội từ Hiệp định này nhằm gia tăng xuất khẩu, nhiều doanh nghiệp trong ngành đã lên phương án như tái cơ cấu bộ máy, sẵn sàng hạ tầng nhà xưởng, nguyên liệu nhằm đáp ứng theo các cam kết của Hiệp định, đồng thời tăng cường đầu tư máy móc để nâng cao chất lượng sản phẩm.
Tương tự, ngành Sản xuất thép trong tháng 9, sản lượng sắt thép thô tăng 9,2%; thép cán tăng 5%; thép thanh, thép góc tăng 0,4% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, tính chung 9 tháng, lượng sắt thép thô giảm 6,1%; thép cán giảm 2,1%; thép thanh, thép góc tăng 9,5% so với cùng kỳ.
Sản lượng thép xây dựng sản xuất, bán hàng và xuất khẩu trong 9 tháng của năm 2020 đều giảm do tác động của dịch COVID-19. Tuy nhiên, dự kiến từ tháng 9 đến cuối năm, thị trường thép xây dựng sẽ khởi sắc hơn do trong ngắn hạn thị trường nội địa có nhu cầu tiêu thụ thép nhiều hơn sau thời gian giãn cách do dịch bệnh COVID-19.