Máy bay chiến đấu F-15K, F-16 và F-35 tham gia cuộc tập trận tại Hàn Quốc. Ảnh: Yonhap/TTXVN
 
Bình luận với tạp chí Foreign Affairs (foreignaffairs.com) mới đây, bà Shannon K. O'Neil, Phó Chủ tịch cấp cao, Giám đốc nghiên cứu tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại (CFR) cho rằng, chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump đã viết lại các quy tắc trong chính sách thương mại của Mỹ chỉ trong vài tháng, áp đặt thuế quan toàn diện lên hầu hết mọi quốc gia, với mức thuế suất hiệu lực trung bình hiện ở mức khoảng 18% – mức cao nhất trong gần một thế kỷ. Chính sách bảo hộ này nhằm mục tiêu tái công nghiệp hóa, tạo việc làm và giảm sự phụ thuộc vào các đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, thiệt hại mà thuế quan gây ra sẽ lớn hơn nhiều so với lợi ích mà chúng mang lại.
Việc tách Mỹ khỏi chuỗi cung ứng toàn cầu không chỉ làm tăng chi phí và giảm chất lượng sản phẩm, hạn chế tăng trưởng kinh tế, mà còn làm suy yếu cả ngành công nghiệp quốc phòng – lĩnh vực Mỹ cần sự đổi mới hơn bao giờ hết trong bối cảnh chiến tranh do thiết bị bay không người lái (UAV) và trí tuệ nhân tạo (AI) chi phối.
Tác động tiêu cực đến kinh tế Mỹ
Chuyên gia O'Neil lưu ý, trong suốt 50 năm qua, sự hội nhập của Mỹ vào chuỗi cung ứng toàn cầu đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Giờ đây, những con số ban đầu cho thấy thuế quan đang có tác động, nhưng không mấy hứa hẹn:
Về sản xuất và việc làm: Hoạt động sản xuất tại Mỹ đã suy giảm trong 6 tháng qua theo Chỉ số Quản lý Mua hàng (PMI) của Viện Quản lý Cung ứng. Số lượng việc làm trong ngành sản xuất đã giảm 78.000 trong năm nay.
Lạm phát tăng nhanh: Lạm phát đang tăng nhanh do hàng hóa nhập khẩu chịu thuế quan được bán với giá cao hơn. Hàng hóa sản xuất tại Mỹ cũng trở nên đắt đỏ hơn vì khoảng 45% hàng nhập khẩu là nguyên liệu được sử dụng trong sản xuất tại Mỹ. Điều này khiến chi tiêu của người tiêu dùng thu nhập thấp đã đi ngang trong vài tháng qua.
Chi phí sản xuất trong nước tăng: Thuế đánh vào thép, nhôm, gỗ xẻ, đồng và các vật liệu khác làm tăng chi phí khởi nghiệp cho các công ty có ý định chuyển hoạt động sản xuất về nước. Điều này khiến việc xây dựng nhà máy và mở rộng mạng lưới tại Mỹ trở nên tốn kém hơn, có thể khiến một số nhà đầu tư nước ngoài e ngại.
Do giá hàng hóa sản xuất tại Mỹ tăng, chúng sẽ trở nên kém cạnh tranh hơn khi xuất khẩu ra nước ngoài, nơi có hàng tỷ người tiêu dùng đang có nhu cầu. Hơn nữa, gần hai phần ba trong số khoảng 2 nghìn tỷ USD hàng hóa mà các công ty Mỹ xuất khẩu mỗi năm là đầu vào cung cấp cho chuỗi cung ứng toàn cầu. Khi những hàng hóa này trở nên đắt đỏ hơn, các nhà sản xuất nước ngoài sẽ tìm kiếm các lựa chọn thay thế.
Trong khi đó, phần còn lại của thế giới đã phản ứng bằng cách tăng cường giao thương và định tuyến lại hàng hóa để tránh xa Mỹ. Các nền kinh tế như EU, Brazil, Trung Quốc, Ấn Độ và Anh đều đang đàm phán các hiệp định thương mại mới với nhiều đối tác khác nhau.
Suy yếu ngành công nghiệp quốc phòng
Ngành công nghiệp quốc phòng Mỹ cũng không tránh khỏi những tác động này. Từ lâu, sức mạnh quân sự của Mỹ đã đến từ khả năng tiếp cận và tập hợp nguồn cung ứng từ khắp nơi trên thế giới. Sự mở rộng của chuỗi cung ứng quốc tế đã thúc đẩy tốc độ đổi mới và giảm chi phí sản xuất, cũng như xây dựng qua hàng thập kỷ với sự hợp tác của các đồng minh như Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia châu Âu. Nhưng việc áp thuế quan toàn diện sẽ làm suy yếu khả năng thể hiện sức mạnh của Washington thay vì củng cố:
 
Thứ nhất, tăng chi phí sản xuất quốc phòng: Thuế quan khiến sản xuất quốc phòng trở nên đắt đỏ hơn. Các nhà thầu quốc phòng phải trả giá cao hơn cho thép, nhôm, đồng và chất bán dẫn sản xuất trong nước do các biện pháp bảo hộ thuế quan cho phép các nhà sản xuất Mỹ định giá cao hơn. Ví dụ, thuế quan khiến việc đầu tư vào ngành đóng tàu kém hấp dẫn hơn vì các nhà máy đóng tàu Mỹ sẽ phải trả nhiều hơn 50% so với các đối thủ cạnh tranh toàn cầu cho nguyên liệu.
Thứ hai, mất khách hàng quốc tế: Các đồng minh nước ngoài mua hơn 300 tỷ USD vũ khí và thiết bị quốc phòng từ các nhà sản xuất Mỹ vào năm 2024. Khách hàng quốc tế chiếm khoảng 10 đến 40% tổng doanh số bán hàng của các nhà thầu quốc phòng hàng đầu của Mỹ. Tuy nhiên, nguồn cầu đáng tin cậy này đang bị đe dọa do sự bất mãn với chính sách thuế quan dễ thay đổi của Mỹ.
Thứ ba, đồng minh tìm kiếm thay thế: Các đồng minh NATO, Australia, Nhật Bản, và Hàn Quốc đang tăng chi tiêu quốc phòng nhưng cũng có tham vọng mở rộng nền tảng công nghiệp quốc phòng của riêng mình. Các quốc gia như Đan Mạch và Tây Ban Nha đã chọn các mẫu máy bay và hệ thống phòng không của châu Âu thay vì của Mỹ. Thủ tướng Đức Friedrich Merz đã đặt mục tiêu "đạt được độc lập" khỏi Mỹ làm ưu tiên quốc phòng, và các cuộc thảo luận ở châu Âu ngày càng tập trung vào "quyền tự chủ chiến lược".
Ngoài ra, việc sản xuất tập trung trong nước Mỹ tạo ra sự dễ bị tổn thương, bằng chứng là tình trạng thiếu hụt đạn pháo 155 mm chỉ được sản xuất tại một nhà máy ở Scranton, Pennsylvania, vào năm 2022. Hơn nữa, Mỹ đang phụ thuộc vào Trung Quốc về các đầu vào vật liệu cơ bản (như gali, vonfram, germani, v.v.) và các thành phần vật lý của UAV, robot và hệ thống radar thế hệ tiếp theo.
Trong khi đó, các công ty quốc phòng của Mỹ không thể đơn giản đưa toàn bộ chuỗi cung ứng của họ về nước, đồng thời cần quy mô và lợi nhuận mà thương mại quốc tế để duy trì hoạt động kinh doanh cũng như tiếp cận các cải tiến tiên tiến, vốn phần lớn đến từ nước ngoài. Việc xây dựng cơ sở công nghiệp quốc phòng của Mỹ và các cơ sở công nghiệp quốc phòng đồng minh cùng nhau, bổ trợ thay vì cạnh tranh, không chỉ giúp Mỹ và các đồng minh phối hợp tốt hơn mà còn mang lại lợi ích thương mại.
Trên cơ sở đó, bà O'Neil đề xuất Washington nên chuyển sang áp dụng thuế quan có mục tiêu, chỉ tập trung vào các ngành công nghiệp và đầu vào chiến lược, đồng thời giảm bớt hoặc xóa bỏ thuế quan đối với các quốc gia đáng tin cậy để khuyến khích " chuyển hướng sang giao thương với các nước đáng tin cậy cũng như các đồng minh chính trị và kinh tế nhằm giảm bớt rủi ro" (friend-shoring).