Qua thời gian, tầm vóc, ý nghĩa to lớn của chiến thắng Xuân Mậu Thân
1968 ngày càng được khẳng định, trở thành biểu tượng của ý chí quyết
chiến quyết thắng, thể hiện kỹ thuật chiến tranh cách mạng, sức sáng tạo
vượt bậc của chiến tranh nhân dân.
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm sự
kiện lịch sử này (1968 – 2018), Báo Tin Tức trân trọng giới thiệu bài
viết “Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân
Mậu Thân 1968” của Tiến sĩ Trần Hữu Huy, Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam.
Quân Giải phóng tiến công tiêu diệt giặc tại Sài Gòn (1968). Ảnh: Tư liệu TTXVN |
Năm 1968, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân dân ta ở miền Nam mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên khắp chiến trường, giáng đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của đội quân viễn chinh, buộc chính phủ Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận đi vào đàm phán tại Hội nghị Paris. Giữa toàn bộ bức tranh cuộc chiến, đòn tiến công quân sự trên Mặt trận Đường 9-Khe Sanh (một hướng của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy) giữ vị trí, vai trò quan trọng.
Theo kế hoạch tác chiến chiến lược được Bộ Chính trị chính thức thông qua (12/1967), cuộc Tổng tiến công và nổi dậy sẽ diễn ra vào dịp Tết Mậu Thân 1968, bao gồm hai đòn chính nhằm vào hai hướng chiến lược khác nhau: Đòn tiến công tập trung của bộ đội chủ lực tại chiến trường có lợi (trọng điểm là Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh) nhằm kéo đại bộ phận lực lượng cơ động đối phương ra vòng ngoài, thực hiện nhiệm vụ nghi binh, đồng thời đánh tiêu hao, tiêu diệt lớn, làm phá sản chiến lược quân sự “tìm diệt” của Mỹ.
Đòn tiến công tổng hợp (kết hợp chặt chẽ quân sự, chính trị, binh vận) nhằm vào các đô thị, nơi có cơ quan đầu não, hậu cứ an toàn của địch để giành thắng lợi quyết định, buộc Mỹ phải đàm phán đi đến chấm dứt chiến tranh.Trong kế hoạch hiệp đồng, Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh phải nổ súng đánh địch trước Tết Mậu Thân 1968 từ 10 đến 15 ngày, tạo điều điện cho quân dân toàn miền đồng loạt tiến công và nổi dậy vào đúng đêm Giao thừa Tết Nguyên đán.
Ngày 6/12/1967, Quân ủy Trung ương ra quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Quân ủy Trung ương về mọi mặt. Thiếu tướng Trần Quý Hai, Phó Tổng Tham mưu trưởng được cử giữ chức Tư lệnh kiêm Phó Bí thư Đảng ủy. Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị giữ chức Phó Tư lệnh kiêm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Mặt trận. Lực lượng tham gia lúc đầu bao gồm 4 sư đoàn bộ binh (304, 320, 324, 325), 5 trung đoàn pháo binh, 3 trung đoàn pháo cao xạ, 4 đại đội xe tăng... Tổng quân số (kể cả vận tải, thông tin, hậu cần...) khoảng 60.000 người.
Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh nằm ngay sát phía Nam giới tuyến quân sự tạm thời, bao gồm địa bàn chủ yếu 3 huyện: Hướng Hóa, Cam Lộ, Gio Linh (tỉnh Quảng Trị), kéo dài từ khu vực Cửa Việt - Đông Hà (phía Đông) đến biên giới Việt - Lào (phía Tây). Do tính chất quan trọng về quân sự cũng như sự nhạy cảm về chính trị, nên ngay từ khi nhảy vào miền Nam, Mỹ và chính quyền Sài Gòn cho xây dựng một hệ thống phòng thủ mạnh dọc theo Đường 9 nhằm “ngăn chặn sự xâm lăng từ Bắc Việt Nam”.
Đến cuối năm 1967, trên tuyến phòng thủ Đường 9, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã tập trung 45.000 quân với các loại vũ khí, trang bị hiện đại. Căn cứ chính của quân Mỹ đóng tại Khe Sanh (thuộc huyện Hướng Hóa). Do bị lún sâu vào thế bị động, phụ thuộc nặng nề vào sức mạnh vật chất nên phía Mỹ đã có nhận định sai lầm về chiến lược, cho rằng: Quân giải phóng không thể dồn sức đánh qui mô lớn, đồng loạt vào thành phố, mà mục tiêu chủ yếu là chiếm Khe Sanh, sau đó chiếm hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, tạo lợi thế bước vào thương lượng.
Đêm 20, rạng ngày 21/1/1968, quân ta nổ súng tiến công căn cứ Khe Sanh cùng toàn bộ tuyến phòng thủ Đường 9 của Mỹ và quân đội Sài Gòn, mở đầu cho cuộc đọ sức kéo dài, quyết liệt. Ngay lập tức, Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam (MACV) tập trung lực lượng, bom đạn đối phó. Ở vào thời điểm đỉnh cao, Mỹ dồn 40% lực lượng cơ động ra “mặt trận vùng giới tuyến”. Tình hình chiến sự trên Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh như “thỏi nam châm cực mạnh” thu hút sự quan tâm theo dõi của cả chính quyền, các hãng truyền thông cùng đông đảo nhân dân Mỹ.
Khi mọi sự chú ý của phía Mỹ đổ dồn vào Khe Sanh, vào ngày 30 -31/1/1968 (Tết Nguyên đán), quân và dân ta bất ngờ mở cuộc tiến công đồng loạt các đô thị trên toàn miền Nam, đánh thẳng vào các cơ quan đầu não của Mỹ, chính quyền Sài Gòn. Đây thực sự là “đòn sấm sét” táo bạo, bất ngờ làm đảo lộn các kế hoạch chiến tranh của chính quyền Tổng thống Lyndon B. Johnson, đồng thời tạo ra sự phản ứng dữ dội trong công chúng Mỹ.
Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry A. Kissinger sau này nhận xét: “Hà Nội đã “chơi trò đấu bò”, lừa con bò tót Mỹ hung dữ ra vòng ngoài rồi dùng lực lượng quân sự của họ bất thần đánh ập vào toàn bộ các đô thị phía trong là nơi Mỹ sơ hở, làm cho bộ chỉ huy Mỹ không kịp trở tay”. Điều đó nói lên tài thao lược, cách dùng binh của Bộ chỉ huy tối cao cách mạng Việt Nam, tập trung lực lượng chủ lực tiến công trực diện vào hệ thống phòng thủ mạnh góp phần làm lạc hướng và thu hút lực lượng đối phương, để rồi sẵn sàng dùng lực lượng chủ lực tinh nhuệ khác đánh vào nơi hiểm yếu nhất của địch, lấy chất lượng cao để thắng số lượng đông.
Như vậy có thể khẳng định: Phía Mỹ hoàn toàn bị bất ngờ bởi đòn tiến công rộng lớn của Quân giải phóng vào hệ thống đô thị miền Nam. Sự bất ngờ đó xuất phát chủ yếu từ một kế hoạch nghi binh rộng lớn của phía cách mạng (bao gồm cả chính trị, quân sự, ngoại giao), trong đó hoạt động quân sự trên Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh đóng vai trò là đòn nghi binh chiến lược.
Không chỉ là đòn nghi binh chiến lược, Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh còn là nơi thu hút, giam chân và tiêu diệt một bộ phận lớn lực lượng chiến đấu, phương tiện chiến tranh của Mỹ, tạo điều kiện cho chiến trường toàn miền đẩy mạnh đấu tranh. Cuộc giao tranh trên Mặt trận Đường 9-Khe Sanh diễn ra rất quyết liệt, kéo dài liên tục gần 6 tháng (từ ngày 20/1 đến ngày 15/7/1968). Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ đã đưa về “mặt trận vùng giới tuyến” đến 40% sức mạnh có trong tay, tung nhiều đơn vị chủ lực mạnh trực tiếp tham chiến trên Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh (như Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ; lực lượng lính thủy đánh bộ số 3 Mỹ; lực lượng biệt động quân và chiến đoàn dù Việt Nam cộng hòa...).
Ngoài ra, một khối lượng lớn bom đạn, vũ khí, phương tiện chiến tranh cũng được huy động để bảo đảm cho chiến đấu. Chỉ tính riêng từ ngày 21/1 đến ngày 31/3/1968, Mỹ đã sử dụng 24.000 lần chiếc máy bay chiến thuật, 2.700 lần chiếc máy bay chiến lược B52, ném xuống khu vực Khe Sanh trên 100.000 tấn bom đạn, đó là chưa kể số lượng máy bay vận tải làm nhiệm vụ tiếp tế cho các căn cứ; pháo binh Mỹ đã bắn hơn 100.000 quả đạn... tạo nên một cuộc “phô trương” hỏa lực lớn nhất, tập trung nhất trong lịch sử chiến tranh hiện đại.
Trong lúc toàn chiến trường vẫn cần tăng cường lực lượng từ nước Mỹ sang (Tổng thống Lyndon B. Johnson ra lệnh đưa bổ sung thêm hơn 10.000 quân viễn chinh sang Nam Việt Nam), việc phải huy động một số quân đông cùng với khối lượng vũ khí, trang bị, phương tiện chiến tranh lớn để phục vụ chiến sự Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh gây rất nhiều khó khăn cho quân viễn chinh Mỹ và quân đồng minh ở những chiến trường khác. Do thiếu lực lượng, vũ khí và phương tiện chiến tranh, Mỹ và chính quyền Sài Gòn buộc phải rút khỏi nhiều căn cứ quân sự quan trọng vùng biên giới, rừng núi, đồng thời kế hoạch tái chiếm các đô thị và vùng Quân giải phóng vừa giành quyền kiểm soát bị chậm lại...
Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh còn góp phần quan trọng làm suy giảm ý chí xâm lược của chính quyền Tổng thống Lyndon B. Johnson, thúc đẩy phong trào phản chiến trong các tầng lớp nhân dân Mỹ dâng cao. Quân giải phóng đã mở cuộc tiến công toàn diện, đào hệ thống giao thông hào, chiến hào bao vây căn cứ chính của quân Mỹ ở Khe Sanh, đẩy quân viễn chinh vào tình trạng nguy ngập, có nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn như quân Pháp ở Điện Biên Phủ năm 1954.
Tổng thống Lyndon B. Johnson yêu cầu các cố vấn phải có báo cáo hàng ngày và lập sa bàn tình hình chiến sự Khe Sanh. Dù đã tìm nhiều cách đối phó những ý nghĩ về một thảm họa Điện Biên Phủ xảy ra cho Hoa Kỳ lúc này làm cho chính quyền Tổng thống Lyndon B. Johnson hết sức dao động. Mặt khác, những hình ảnh, tin tức về cuộc chiến đấu của quân viễn chinh tại chiến trường (trong đó có Khe Sanh) được nhanh chóng chuyển về Mỹ, càng thúc đẩy phong trào phản chiến trong các tầng lớp nhân dân Mỹ dâng cao. Không có sự kiện nào trong dịp Tết Mậu Thân 1968 lại được báo chí, truyền hình quan tâm phản ánh nhiều như cuộc cuộc đọ sức tại Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh.
Theo thống kê phía Mỹ, chỉ trong tháng 2 và tháng 3 năm 1968, Khe Sanh xuất hiện chiếm 38% những bài viết về Việt Nam của các nhà báo gửi đến tạp chí Đời sống (AP); chiếm 1/4 thời lượng chương trình về Việt Nam chiếu trong bản tin buổi tối trên tivi (đối với kênh CBS, số lượng thống kê này tăng lên đến một nửa).
Những đề mục, những đoạn văn về Việt Nam trong New York Times thì Khe Sanh chiếm 17/60 ngày. Nhân dân Mỹ vô cùng sửng sốt khi truyền hình công chiếu cảnh hoảng loạn, mất tinh thần chiến đấu của lính Mỹ tại Khe Sanh. Còn những người lính Mỹ ở Khe Sanh thì thấy đó là một “địa ngục trần gian”. Uy danh quân đội Hoa Kỳ chưa từng thất bại trong mọi cuộc chiến tranh nào trước đây thực sự đang bị “vùi dập”. Những gia đình có con em đang tham chiến ở Việt Nam như cảm nhận thấy cái chết đang đến với con mình. Làn sóng đấu tranh phản đối cuộc chiến tranh của các tầng lớp nhân dân Mỹ càng lên cao, nhất là khi báo chí Mỹ đồng loạt đưa tin Tổng thống Lyndon B. Johnson đang cân nhắc dùng vũ khí nguyên tử để cứu nguy cho Khe Sanh. Mặc dù vũ khí nguyên tử không được sử dụng nhưng những thông tin về vấn đề này đã góp phần làm thức tỉnh lương tri nhiều người dân Mỹ đấu tranh chống chính phủ, phản đối cuộc chiến tranh mà nước Mỹ đang tiến hành ở miền Nam Việt Nam.
Diễn biến tình hình chiến sự Khe Sanh cũng như đòn tiến công bất ngờ, rộng lớn vào các đô thị ở miền Nam cho thấy rằng: những báo cáo của chính quyền về “thắng lợi và triển vọng” của cuộc chiến tranh Việt Nam chỉ là sự lừa dối. Bình luận về chiến sự ở Khe Sanh tác động về trong nước, nhà sử học Mỹ Michael Maclear viết: “Bản tin lúc 6 giờ chiều đã trở thành cuộc chiến trong phòng khách mỗi gia đình Mỹ. Các hình ảnh như thế tạo ra cảm nghĩ chung: Khe Sanh không phải là thung lũng cần có tự do mà là sự điên rồ to lớn nhất của một thế hệ già nua nắm giữ quyền lực”. Ngày 26/6/1968, trước những khó khăn và tổn thất to lớn, Mỹ tuyên bố rút khỏi căn cứ Khe Sanh cùng nhiều cứ điểm quan trọng trên tuyến phòng thủ Đường 9. Đây là thắng lợi có ý nghĩa to lớn của quân và dân ta.
50 năm đã trôi qua, chúng ta càng nhận thức toàn diện, sâu sắc hơn về tầm vóc và ý nghĩa của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Trong chiến công lịch sử chung ấy, cuộc chiến đấu của quân và dân ta trên Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh (Xuân Hè 1968) trở thành một trong những chiến trường tiêu biểu, góp phần khẳng định sức mạnh của ý chí, của bản lĩnh và tầm cao trí tuệ Việt Nam trong “cuộc đụng đầu lịch sử”.