Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái Đỗ Đức Duy phát biểu tại Hội thảo. |
Hội thảo nhằm đánh giá, phân tích đúng về thực trạng sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản của tỉnh Yên Bái, từ đó xác định mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong phát triển bền vững, nâng cao giá trị gia tăng ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới tỉnh Yên Bái trong giai đoạn 2018 - 2020 và các năm tiếp theo.
Phát biểu tại hội thảo, ông Đỗ Đức Duy, Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái, khẳng định: Cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh trong năm 2018, là nội dung hết sức quan trọng, thiết thực, có ý nghĩa chính trị, kinh tế, xã hội sâu sắc; góp phần nhìn lại thực tiễn phát triển nông nghiệp và nông thôn, nhận diện rõ hơn những lợi thế so sánh của địa phương cũng như những khó khăn, thách thức cần vượt lên; từ đó định hướng các chương trình, kế hoạch hành động cụ thể để thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn tỉnh Yên Bái theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa X và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Trong những năm qua, ngành nông nghiệp Yên Bái đã có những chuyển biến tích cực, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt từ 4 - 5%/năm. Giá trị sản xuất nông nghiệp (theo giá so sánh năm 2010) tăng 8,9% so với năm 2015, tăng 36% so với năm 2010. Cơ cấu nội ngành chuyển dịch tích cực theo hướng giảm tỷ trọng ngành trồng trọt từ 75,3% xuống 67,3%; tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi từ 23% lên 31,5%; các ngành lâm nghiệp, thủy sản đều tăng.
Tỉnh Yên Bái đã dần hình thành được một số vùng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, giá trị cao như: vựa lúa đặc sản 3.000 ha, vùng ngô hàng hóa 15.000 ha, vùng trồng dâu nuôi năm 450 ha, vùng cây ăn quả 7.000 ha, vùng chè 8.000 ha, vùng quế 70.000 ha, vùng măng tre Bát độ trên 3.600 ha, vùng sơn tra 6.000 ha, vùng gỗ nguyên liệu 180.000 ha... Đặc biệt, tỉnh đã xây dựng được một số sản phẩm nông nghiệp đặc sản, đặc trưng, có thương hiệu, gắn kết giữa sản xuất với chế biến và tiêu thụ như: quế Văn Yên, cam Văn Chấn, cam Lục Yên, bưởi Đại Minh, chè Suối Giàng, gạo nếp Tú Lệ, gạo Mường Lò, cá hồ Thác Bà.
Tuy nhiên, ngành nông nghiệp Yên Bái vẫn còn nhiều hạn chế, phương thức sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, các sản phẩm nông nghiệp chủ yếu là sản phẩm thô, chưa qua chế biến sâu, nên giá trị hàng hóa không cao; chưa có nhiều mô hình liên kết theo chuỗi giá trị từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ nông sản một cách bền vững. Việc sản xuất theo quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP) chưa được áp dụng rộng rãi, vấn đề áp dụng khoa học kỹ thuật còn hạn chế, việc huy động các nguồn lực cho phát triển nông nghiệp, nông thôn còn khó khăn. Năng suất, chất lượng một số loại nông sản chưa đảm bảo, chi phí sản xuất lớn, giá thành sản phẩm cao, dẫn đến khả năng cạnh tranh thấp. Hiệu quả kinh tế sản xuất lâm nghiệp còn thấp chưa tương xứng với tiềm năng...
Các đại biểu tham quan các gian hàng trưng bày, giới thiệu sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu của tỉnh Yên Bái. |
Theo nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh, bản chất của việc cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp ở Yên Bái hay các tỉnh vùng cao, miền núi chính là việc làm chuyển đổi tư duy, nhận thức và hoạt động sản xuất nông nghiệp từ lối làm ăn tự cấp tự túc sang lối làm ăn theo cơ chế thị trường. Các tỉnh vùng cao, miền núi phía Bắc địa hình chia cắt, hiểm trở, tạo ra nhiều vùng địa sinh thái khác nhau. Mỗi vùng phù hợp với một số cây trồng, vât nuôi nhất định. Do vậy, khi nghiên cứu chuyển đổi cây trồng, vật nuôi tại mỗi vùng cần tránh đưa những cây trồng, vật nuôi chưa được thử nghiệm, không phù hợp với khí hậu vùng để phát triển tràn lan. Đồng thời, cần nghiên cứu để phát triển các "sản phẩm đặc sản riêng có" của mỗi vùng.