Tham dự hội nghị có đại diện lãnh đạo của các Bộ, ngành Trung ương, lãnh đạo tỉnh Điện Biên, Sơn La, Yên Bái, Lào Cai và trực tuyến tới 12 điểm cầu các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc.
Khai mạc hội nghị, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, hội nghị nhằm đánh giá thực trạng, tiềm năng phát triển kinh tế dưới tán rừng tại các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc và đề xuất các giải pháp thực hiện trong thời tới. Thứ trưởng Phùng Đức Tiến đề nghị các đại biểu đánh giá kỹ tình hình phát triển, thực trạng, khó khăn và đề xuất giải pháp chính sách cụ thể nhằm khai thác tiềm năng đa sinh thái rừng.
Giai đoạn 2021-2030, hội nghị đã đưa ra 5 định hướng và 3 giải pháp cụ thể. Đó là, phát triển ngành lâm nghiệp bền vững trên cơ sở quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên rừng; phát triển, sử dụng rừng theo hướng đa chức năng, đa giá trị, trên cơ sở tiềm năng, lợi thế của từng tiểu vùng, địa phương; nâng cao giá trị các sản phẩm của rừng theo chuỗi.
Về quy hoạch, Bộ sẽ hoàn thiện quy hoạch lâm nghiệp quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, phù hợp với tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, tiểu vùng; quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu tập trung cho từng tỉnh.
Về cơ chế, chính sách sẽ nghiên cứu, xây dựng chính sách, cơ chế đặc thù đối với từng loại rừng để phát huy giá trị loại rừng đó; hoàn thiện một số chính sách có liên quan đến phát triển lâm sản ngoài gỗ dưới tán rừng. Về khoa học công nghệ, nghiên cứu, lựa chọn, cung cấp giống cây rừng trồng, lâm sản ngoài gỗ, dược liệu... có năng suất, chất lượng để đưa vào sản xuất…
Phát biểu tại hội nghị, Bí thư Tỉnh ủy Lai Châu Giàng Páo Mỷ khẳng định, thời gian qua, Lai Châu xác định phát triển rừng bền vững là nhiệm vụ quan trọng và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện hiệu quả công tác quản lý và bảo vệ, phát triển rừng. Tỉnh cũng đã đẩy mạnh phát triển kinh tế rừng thông qua việc hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với các loại cây có giá trị kinh tế cao và chú trọng nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân trong việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
Đến nay, nhiều loại dược liệu quý hiếm được nhân dân bảo tồn và phát triển như: sâm Lai Châu, cây bảy lá một hoa, lan kim tuyến, tam thất, đương quy, thảo quả, hà thủ ô. Nhờ đó, tỷ lệ che phủ rừng từng năm được nâng lên, đạt gần 51%; trên 70% số hộ dân tham gia trồng rừng và bảo vệ rừng có nguồn thu nhập ổn định.
Tại hội nghị, các đại biểu đã tập trung tham luận đưa ra những ý tưởng, giải pháp khai thác tiềm năng, thế mạnh về các giá trị của hệ sinh thái rừng. Đại diện Đại sứ quán Phần Lan đã đưa một số ý tưởng, giải pháp phát triển rừng ở Phần Lan. Đó là, việc quản lý rừng được cân bằng giữa tính bền vững với việc khai thác, sử dụng thông qua Luật Lâm nghiệp, các quyết định của Chính phủ và các chứng nhận, quản lý điều kiện tự nhiên của các khu rừng thương mại. Đến nay, 2/3 diện tích rừng ở Phần Lan thuộc sở hữu của các gia đình bình thường và họ sản xuất ra hơn 80% gỗ được sử dụng cho ngành công nghiệp, lâm nghiệp. Hiện, Phần Lan đứng đầu thế giới về công nghệ trong lâm nghiệp với các sản phẩm gỗ, bao bì, dệt may.
Đại diện lãnh đạo tỉnh Sơn La đã chia sẻ tiềm năng, thế mạnh dưới tán rừng và giải pháp phát triển kinh tế dưới tán rừng của địa phương. Đồng thời, đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét ban hành hướng dẫn quy trình kỹ thuật gieo ươm, trồng và chăm sóc các loài cây lâm sản ngoài gỗ có giá trị kinh tế có thể kết hợp canh tác dưới tán rừng. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề xuất Chính phủ cho phép tỉnh Sơn La có cơ chế, chính sách đặc thù hàng năm được phép trích 3% nguồn kinh phí chi trả dịch vụ môi trường rừng để đầu tư hỗ trợ lại cho công tác phát triển kinh tế rừng.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan đã ghi nhận những ý kiến đóng góp thiết thực của các đại biểu. Bộ sẽ quan tâm tháo gỡ những vấn đề về thể chế và có chương trình, đề án riêng về phát triển dưới tán rừng cho vùng Trung du miền núi phía Bắc, không để bà con phát triển một cách tự phát.
Cùng đó, kích hoạt tất cả các giá trị biến nông nghiệp không phải là sản lượng sản xuất nữa mà là kinh tế, dựa trên 3 trụ cột: tài nguyên bản địa, tinh hoa dân tộc và tinh hoa sáng tạo. Mặt khác, các địa phương phát triển bền vững dưới tán rừng là làm sao khai thác có kiểm soát, có chương rình, chủ thuyết, không làm mất đi giá trị hiện hữu của rừng. Cùng đó, tạo thêm nguồn lực kinh tế dưới tán rừng thành một chuỗi ngành hàng, tích hợp giữa du lịch sinh thái, du lịch miền núi nhằm tạo thu nhập cho bà con.
Theo báo cáo của Tổng cục lâm nghiệp, các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc gồm 17 tỉnh có tổng diện tích rừng là trên 5,731 triệu ha, chiếm 39,6% tổng diện tích rừng toàn quốc; trong đó, rừng tự nhiên khoảng 3,962 triệu ha, diện tích rừng trồng là 1,796 triệu ha. Các loài cây trồng chủ yếu là Keo, Bạch đàn, Thông, Mỡ, Quế,... Tính đến năm 2020, tỷ lệ che phủ rừng vùng Trung du miền núi phía Bắc khoảng 52,6%.
Những năm qua, ngành công nghiệp chế biến gỗ tại các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc là ngành hàng xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng cao, bình quân đạt trên 13%/năm. Năm 2020, sản lượng khai thác gỗ rừng trồng đạt 7,9 triệu m3 gỗ, ước đạt khoảng 9.480 tỷ đồng/năm. Các tỉnh có 747 doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, chế biến gỗ và lâm sản; tổng nguồn thu dịch vụ môi trường rừng giai đoạn 2011-2020 hơn 7.750 tỷ đồng, riêng năm 2020 thu 1.239 tỷ đồng.
Các tỉnh Trung du miền núi phía Bắc còn có tiềm năng phát triển du lịch sinh thái với một số địa điểm đặc trưng thu hút du khách như: Vườn quốc gia Hoàng Liên có đỉnh Fansipan; Vườn quốc gia Bái Tử Long - Vịnh Hạ Long được công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới; Khu Bảo tồn thiên nhiên Mường La, Tà Xùa, Sốp Cộp và Xuân Nha, tỉnh Sơn La...
Qua đó, thu hút hàng trăm nghìn lượt khách du lịch đến tham quan; ước tính tổng chi tiêu của du khách khoảng 620 tỷ đồng, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân và thu ngân sách của các tỉnh.