Theo đó, Viện Chiến lược phát triển - cơ quan tư vấn đã dựa trên các giả định và biến đầu vào như: tăng trưởng kinh tế, thương mại và đầu tư; biến đổi về nhân khẩu học; vấn đề xã hội; biến đổi khí hậu; Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; yếu tố từ bối cảnh kinh tế - xã hội - môi trường của Việt Nam và yếu tố nội tại của vùng Đông Nam Bộ để dự báo 3 kịch bản tăng trưởng.
Theo đó, ở kịch bản 1 - kịch bản thấp có tốc độ tăng trưởng GRDP dự báo đạt bình quân 4,92%/năm trong giai đoạn 2021 - 2025; đạt bình quân 7,18%/năm trong giai đoạn 2026 - 2030. Tính chung cả giai đoạn 2021 - 2030 đạt bình quân 6,04%/năm. Giai đoạn 2031 - 2050, tốc độ tăng trưởng dự kiến đạt khoảng 6,85%/năm.
Trong giai đoạn 2021 - 2030, đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt 46,8%; tăng trưởng năng suất lao động đạt bình quân 5,4%/năm.
Dự báo đến năm 2025, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 200 triệu đồng, tương đương 8.200 USD/người; đến năm 2030 đạt khoảng 315 triệu đồng, tương đương 11.800 USD; đến năm 2050 đạt 38.500 USD. Dự kiến cần lượng vốn đầu tư khoảng 11,4 triệu tỷ đồng trong giai đoạn 2021 - 2030, gấp 2,1 lần giai đoạn 2011 - 2020. Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển trên GRDP theo giá hiện hành vào khoảng 27%.
Tiếp đến là kịch bản 2 - kịch bản trung bình có tốc độ tăng trưởng GRDP dự báo đạt bình quân 5,48%/năm trong giai đoạn 2021 - 2025; đạt bình quân 8,66%/năm trong giai đoạn 2026 - 2030. Tính chung cả giai đoạn 2021 - 2030 đạt bình quân 7,06%/năm. Giai đoạn 2031 - 2050, tốc độ tăng trưởng dự kiến đạt khoảng 7,2%/năm.
Trong giai đoạn 2021 - 2030, đóng góp của TFP vào tăng trưởng đạt 50,9%; tăng trưởng năng suất lao động đạt bình quân 6,4%/năm.
Dự báo đến năm 2025, thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 205 triệu đồng, tương đương 8.400 USD/người; đến năm 2030 đạt khoảng 345 triệu đồng, tương đương 13.000 USD; đến năm 2050 đạt 45.000 USD. Dự kiến cần lượng vốn đầu tư khoảng 12,3 triệu tỷ đồng trong giai đoạn 2021 - 2030, gấp 2,3 lần giai đoạn 2011 - 2020. Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển trên GRDP theo giá hiện hành vào khoảng 28%.
Và kịch bản 3 - kịch bản phấn đấu có tốc độ tăng trưởng GRDP dự báo đạt bình quân 5,97%/năm trong giai đoạn 2021 - 2025 (trong đó, ba năm 2021 - 2023: 3,88%/năm; hai năm 2024-2025: 9,18%/năm); đạt bình quân 10,2%/năm trong giai đoạn 2026 - 2030. Tính chung cả giai đoạn 2021 - 2030 đạt bình quân 8,07%/năm. Giai đoạn 2031 - 2050, tốc độ tăng trưởng dự kiến đạt khoảng 7,6%/năm.
Trong giai đoạn 2021 - 2030, đóng góp của TFP vào tăng trưởng đạt 58,5%; tăng trưởng năng suất lao động đạt bình quân 7,4%/năm.
Dự báo thu nhập bình quân đầu người đến năm 2025 đạt khoảng 210 triệu đồng, tương đương 8.600 USD/người; đến năm 2030 đạt khoảng 380 triệu đồng, tương đương 14.500 USD; đến năm 2050 đạt 53.000 USD. Dự kiến cần lượng vốn đầu tư khoảng 15,8 triệu tỷ đồng giai đoạn 2021 - 2030, gấp 3 lần giai đoạn 2011 - 2020. Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển trên GRDP theo giá hiện hành vào khoảng 32%.
Là trung tâm kinh tế lớn nhất của đất nước, vùng Đông Nam Bộ có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Năm 2022, GRDP vùng Đông Nam Bộ chiếm khoảng 31% cả nước; xuất khẩu đóng góp khoảng 35%; thu ngân sách chiếm khoảng 38% cả nước; GRDP bình quân đầu người của vùng gấp 1,64 lần cả nước; tỷ lệ đô thị hóa của vùng là 66,5%, bằng 1,8 lần trung bình cả nước.
Mục tiêu tăng trưởng của Vùng Đồng Nam Bộ thời kỳ 2021 - 2030 sẽ là phát triển vùng theo hướng bền vững, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; đồng thời, đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại kinh tế vùng theo hướng hiện đại, lấy kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là trọng tâm và động lực phát triển.
Cùng với đó, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, các ngành dịch vụ chất lượng cao; huy động tối đa nguồn nội lực cho phát triển, kết hợp hài hòa với ngoại lực để phát triển nhanh, bền vững, tự chủ và hội nhập quốc tế sâu rộng. Xây dựng Đông Nam Bộ trở thành vùng văn minh, hiện đại, hội nhập quốc tế; nâng cao sức khoẻ, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, đặc biệt là người có thu nhập thấp; thu hẹp khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển giữa các địa phương trong vùng…