Nhân kỷ niệm 80 năm thành lập ngành Ngoại giao (28/8/1945 - 28/8/2025), Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn đã có cuộc trao đổi với báo chí về những đóng góp quan trọng của ngành Ngoại giao trong 8 thập kỷ đồng hành với sự phát triển đất nước.

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn.

Trong suốt 80 năm trưởng thành và phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự dìu dắt trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên, ngành Ngoại giao Việt Nam đã có một lịch sử vẻ vang, tự hào. Nhìn lại chặng đường 80 năm qua, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng đánh giá như thế nào về vai trò và những dấu mốc nổi bật, những đóng góp quan trọng của ngành Ngoại giao đối với công cuộc đấu tranh giành độc lập tự do, xây dựng, phát triển đất nước? 

Ra đời vào Tháng Tám mùa thu lịch sử năm 1945, ngành Ngoại giao vinh dự, tự hào được Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài, nhà ngoại giao kiệt xuất trực tiếp sáng lập và đặt nền móng. Trong suốt chặng đường 80 năm qua, ngoại giao đã có những đóng góp quan trọng, in đậm dấu ấn trong từng chặng đường lịch sử, từ giai đoạn giữ vững độc lập, đến công cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc và cho xây dựng, bảo vệ Tổ quốc ngày nay. 

Không chỉ là Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng cho ngành Ngoại giao hiện đại Việt Nam.

Trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, đối mặt với “thù trong giặc ngoài” trong những ngày đầu thành lập nước, ngành Ngoại giao đã tiên phong đấu tranh giữ vững thành quả cách mạng, bảo toàn chính quyền nhân dân, kéo dài thời gian chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến trường kỳ. Những "nước cờ" ngoại giao mẫu mực của Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 và Tạm ước ngày 14/9/1946, cũng như những nỗ lực không ngừng tại các Hội nghị Đà Lạt và tại Fontainebleau, đảm bảo đất nước giữ thế chủ động nhất trong hoàn cảnh khó khăn thời điểm đó.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc, ngành Ngoại giao vừa phục vụ kháng chiến, vừa tích cực đấu tranh phá vỡ thế bao vây, cô lập, mở rộng quan hệ với bên ngoài và tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Cùng với các mặt trận quân sự và chính trị, ngoại giao Việt Nam đã phát huy những thắng lợi trên chiến trường, buộc các nước phải ngồi vào bàn đàm phán. Hiệp định Geneva và Hiệp định Paris không chỉ là những mốc son ngoại giao chói lọi, mà còn tạo thời cơ cho thắng lợi vĩ đại giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, kết thúc 30 năm chiến tranh gian khổ chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.

Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, ngành Ngoại giao đã thực hiện cuộc đấu trí đàm phán để đạt được Hiệp định Geneve, buộc Pháp và các nước lớn công nhận quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam.

Bước vào giai đoạn tái thiết đất nước sau chiến tranh, ngành Ngoại giao tiên phong trong việc từng bước phá thế bao vây, cấm vận, đưa đất nước bước ra khỏi khó khăn về kinh tế xã hội; bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, khôi phục quan hệ với các nước Đông Nam Á, thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ và mở rộng quan hệ với các quốc gia khác. Với chủ trương “đa dạng hóa, đa phương hóa”, quan hệ ngoại giao ngày càng được mở rộng. Từ một nước bị bao vây, cô lập, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 194 nước, thiết lập được mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 38 nước, trong đó có tất cả các nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an, các nước G7, G20, là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức quốc tế... 

Bên cạnh đó, cùng với quốc phòng, an ninh, ngoại giao đã góp phần xây dựng vành đai biên giới hòa bình, hữu nghị, bảo vệ vững chắc chủ quyền, lãnh thổ và tạo dựng các cơ chế hợp tác để giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ bằng biện pháp hòa bình. Ngoại giao đa phương góp phần đưa Việt Nam trở thành thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Ngoại giao kinh tế và hội nhập quốc tế ngày càng trở thành động lực quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, huy động các nguồn lực, điều kiện bên ngoài cho phát triển. Các lĩnh vực công tác người Việt Nam ở nước ngoài, ngoại giao văn hóa, thông tin đối ngoại, bảo hộ công dân tiếp tục được triển khai hiệu quả, toàn diện.

Trong suốt chặng đường 80 năm xây dựng và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, ngoại giao Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, không ngừng phát huy truyền thống vẻ vang, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, đóng góp vào những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh phát biểu tại Kỳ họp thứ 32 Đại hội đồng Liên hợp quốc ở New York (Mỹ) ngày 20/9/1977. Kỳ họp đã thông qua Nghị quyết công nhận Việt Nam là thành viên của Liên hợp quốc. 

Thực tiễn triển khai nhiệm vụ trong suốt 80 năm qua, ngành Ngoại giao rút ra những bài học kinh nghiệm gì? Đâu là những giá trị cốt lõi đã tạo nên bản sắc và truyền thống của ngành Ngoại giao Việt Nam, thưa Phó Thủ tướng, Bộ trưởng?

Ngành Ngoại giao Việt Nam ra đời, trưởng thành trong 30 năm kháng chiến và ngày càng lớn mạnh trong 40 năm đổi mới. Được trui rèn, thử thách trong những giai đoạn cam go nhất của lịch sử cách mạng Việt Nam, cũng đã để lại cho ngoại giao Việt Nam nhiều bài học còn nguyên giá trị đến ngày nay. 

Năm 1973, ngoại giao Việt Nam đã thành công với việc ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam. (Trong ảnh: Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh ký Hiệp định Paris).

Đó là bài học về việc bảo đảm cao nhất, trên hết và trước hết lợi ích quốc gia, dân tộc. Tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 3 năm 1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn, ngoại giao “phải luôn luôn vì lợi ích của dân tộc mà phục vụ” và tư tưởng của Người được các thế hệ lãnh đạo, cán bộ ngoại giao Việt Nam thấm nhuần thực hiện trong suốt chặng đường lịch sử 80 năm qua. Đó cũng là bài học về sự lãnh đạo thống nhất, tuyệt đối của Đảng, nhạy bén trong nhận định và nắm bắt tình hình, quyết đoán trong việc đưa ra các quyết sách. Ngay từ những ngày đầu thành lập, Đảng ta đã xác định “điều cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường lối chính trị đúng đắn, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, từng trải trong chiến tranh và trưởng thành”. 

Đó còn là bài học về kết hợp nội lực với ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn, qua đó huy động được sự ủng hộ vô cùng to lớn cả về vật chất và tinh thần của nhân loại tiến bộ ủng hộ Việt Nam. Đó cũng là các bài học về kiên định về nguyên tắc nhưng linh hoạt về sách lược theo phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”; bài học về tầm quan trọng của đoàn kết, đồng thuận; là sự vận dụng nhuần nhuyễn “năm biết” (biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng và biết biến); là khả năng tạo dựng thời cơ và chớp thời cơ; là ngoại giao tâm công giúp thu phục lòng người bằng chính nghĩa, tình người, lẽ phải và đạo lý.

Sau khi đất nước thống nhất, ngành Ngoại giao đóng vai trò quan trọng trong xây dựng hòa bình, đưa đất nước dần hội nhập vào khu vực và thế giới, ký kết hàng trăm thỏa thuận, điều ước quốc tế.

Những bài học kinh nghiệm này đã góp phần hình thành những giá trị cốt lõi, xây dựng ngành Ngoại giao mang đậm bản sắc dân tộc và con người Việt Nam; luôn vì lợi ích quốc gia, dân tộc, phụng sự đất nước, phục vụ nhân dân; ngành Ngoại giao bản lĩnh, kiên cường, nhưng mềm mại, khôn khéo và mang đậm khí phách, bản lĩnh, trí tuệ của dân tộc Việt Nam đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử. Đồng thời, ngành ngoại giao Việt Nam cũng có sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố dân tộc và quốc tế, vừa tiếp thu tinh hoa từ bên ngoài, vừa đóng góp tích cực, trách nhiệm vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu và nền văn minh nhân loại.

Giai đoạn từ năm 1986 - 1995, Bộ Ngoại giao đã tham mưu Bộ Chính trị thông qua Nghị quyết 13 (tháng 5/1988), với 3 hướng chiến lược mang tính bước ngoặt: "Thêm bạn bớt thù", đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế (Trong ảnh: Lễ ký kết hiệp định giữa 2 nước Trung Quốc - Việt Nam tháng 11/1991).

Bộ Chính trị đã ban hành 4 Nghị quyết “trụ cột” từ thể chế, khoa học công nghệ đến kinh tế tư nhân và hội nhập quốc tế. Phó Thủ tướng, Bộ trưởng đánh như thế nào về nhiệm vụ, vai trò của ngoại giao trong việc triển khai 4 Nghị quyết và ngành Ngoại giao đã có những sự chuẩn bị gì để tiếp tục cụ thể hóa Nghị quyết 59, thưa Phó Thủ tướng, Bộ trưởng?

Nhìn lại lịch sử cách mạng, sự phát triển của đất nước luôn gắn liền với những xu thế, biến chuyển của thời đại. Đây cũng là thời kỳ chiến lược quan trọng của cách mạng Việt Nam để bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển hùng mạnh của dân tộc, đạt mục tiêu 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc đạt mục tiêu 100 năm thành lập nước. 

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng dự Hội nghị Ngoại giao lần thứ 32, với chủ đề: “Phát huy vai trò tiên phong, xây dựng ngành Ngoại giao toàn diện, hiện đại, vững mạnh, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng” tại Hà Nội ngày 19/12/2023.

Trong bối cảnh đó, “Bộ tứ trụ cột” Nghị quyết là động lực để đưa Việt Nam “cất cánh”. Các Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Nghị quyết 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thực thi pháp luật, Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân và Nghị quyết 59-NQ/TW về Hội nhập quốc tế trong tình hình mới là những quyết sách chiến lược góp phần kiến tạo cơ hội, điều kiện thuận lợi cho mục tiêu phát triển mạnh mẽ, bứt phá của đất nước.

Trong đó, Nghị quyết 59 đánh dấu bước ngoặt về đổi mới tư duy, cách tiếp cận trong quá trình hội nhập của đất nước. Hội nhập quốc tế vừa được xác định là “trọng yếu, thường xuyên”, vừa là “động lực quan trọng” đưa đất nước vào kỷ nguyên mới. Hội nhập quốc tế hiện nay không chỉ dừng lại ở việc định vị Việt Nam là quốc gia “đến sau”, “tham gia”, “gia nhập”, mà xác định vị thế của quốc gia “xây dựng”, “định hình” và tham gia “dẫn dắt” các khuôn khổ hợp tác phù hợp với điều kiện và năng lực mới của đất nước .

Công tác ngoại giao kinh tế là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngoại giao và ngày càng có vai trò quan trọng trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động như hiện nay. Xin Phó Thủ tướng, Bộ trưởng đánh giá những kết quả, thành tựu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thời gian qua và ngành Ngoại giao sẽ triển khai nhiệm vụ ngoại giao kinh tế như thế nào để góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước thời gian tới?

Ngoại giao kinh tế không chỉ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà còn trở thành động lực quan trọng trong công cuộc phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng của Việt Nam. Thời gian qua, ngoại giao kinh tế được triển khai đồng bộ, gắn kết chặt chẽ với đối ngoại chính trị, quốc phòng an ninh, văn hóa, tạo nên một mặt trận thống nhất, phục vụ hiệu quả cho công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước.

Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ kinh tế thương mại với hơn 230 quốc gia, vùng lãnh thổ; ký kết và triển khai 17 Hiệp định Thương mại Tự do (FTA), trong đó có nhiều FTA thế hệ mới và đang thúc đẩy đàm phán với các đối tác khác. Việt Nam hiện đã vào nhóm 32 quốc gia hàng đầu thế giới về quy mô GDP, tốp 20 quốc gia có quy mô thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài lớn nhất, có đóng góp tích cực của công tác ngoại giao kinh tế.

Cùng với đó, việc tích cực triển khai Chỉ thị 15 của Ban Bí thư về ngoại giao kinh tế đã góp phần đưa Việt Nam trở thành mắt xích quan trọng trong thị trường khu vực và thế giới; mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực mới, tham gia sâu hơn vào các chuỗi cung ứng, cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn (thứ năm, trái sang) với các Bộ trưởng ASEAN tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN +3b (Malaysia, ngày 10/7/2025).

Trong bối cảnh thách thức và cơ hội đan xen, bám sát mục tiêu phát triển của đất nước, nhất là mục tiêu tăng trưởng 2 con số và 2 mục tiêu 100 năm, thời gian tới, ngoại giao kinh tế đất nước sẽ tập trung vào bốn nhiệm vụ ưu tiên:

Một là khai thác tối đa lợi ích của các hiệp định thương mại tự do, đầu tư hiện có, nhất là những thị trường, lĩnh vực còn chưa được khai thác; khai mở các nguồn đầu tư, tài chính mới, nhất là những nguồn lực từ các doanh nghiệp, các quỹ đầu tư lớn; cụ thể hóa các khuôn khổ quan hệ vừa được nâng cấp thành các chương trình, dự án hợp tác kinh tế thiết thực, hiệu quả.

Hai là tích cực góp phần thúc đẩy tăng trưởng, chú trọng làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống (đầu tư, xuất khẩu, tiêu dùng); đồng thời, đẩy mạnh các động lực tăng trưởng mới (khoa học công nghệ, chuyển đổi số, tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức).

Ba là kịp thời nhận diện và tranh thủ cơ hội từ những xu hướng mới đang được định hình như các xu hướng chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng; thiết lập sự hợp tác sâu rộng với các trung tâm đổi mới sáng tạo của thế giới, bao gồm cả các quốc gia và doanh nghiệp, trong các lĩnh vực mang tính đột phá như công nghệ cao, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, khoa học lượng tử…

Cuối cùng, ngoại giao kinh tế sẽ tiếp tục đồng hành với các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp trong tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, kiến tạo các đòn bẩy, kết nối, thu hút các dự án và chương trình hợp tác mới từ các đối tác, phục vụ cho phát triển nhanh, bền vững của đất nước. 

Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Đỗ Hùng Việt phát biểu tại Phiên họp khẩn cấp đặc biệt về tình hình xung đột và khủng hoảng nhân đạo tại Gaza (New York, ngày 12/12/2024).

Trong 80 năm qua, trí thức Việt Nam ở nước ngoài luôn là một nguồn lực đặc biệt, có vai trò quan trọng cho sự phát triển của đất nước. Những năm gần đây, Việt Nam đã có những chính sách kết nối, thu hút và phát huy tiềm năng của đội ngũ trí thức Việt Nam ở nước ngoài. Vậy trong giai đoạn phát triển mới, ngành Ngoại giao sẽ triển khai những giải pháp cụ thể và những đổi mới như thế nào để tiếp tục thu hút đội ngũ trí thức trẻ thế hệ thứ hai, thứ ba ở nước ngoài trở về đóng góp cho đất nước, thưa Phó Thủ tướng, Bộ trưởng?

Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN) là bộ phận không tách rời của dân tộc, đóng góp quan trọng vào sự phát triển đất nước, với khoảng 6 triệu người Việt Nam đang sinh sống, học tập, làm việc tại hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ. 

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn và Phó Chủ tịch Ủy ban châu Âu (EC), Đại diện cấp cao Liên minh châu Âu (EU) về chính sách đối ngoại và an ninh Josep Borrell Fontelles tham quan Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam (Hà Nội, ngày 30/7/2024).

Với nhận thức sâu sắc về vai trò, vị trí của kiều bào, trong những năm vừa qua, công tác NVONN được triển khai toàn diện, qua đó thể hiện sự quan tâm, chăm lo của Đảng và Nhà nước, góp phần củng cố sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy nguồn lực của kiều bào cho xây dựng và phát triển đất nước. Cùng với đó, Đảng, Nhà nước cũng đã có những cơ chế kết nối, mời gọi để thu hút và phát huy tiềm năng của kiều bào ở nước ngoài, nhất là đội ngũ trí thức. Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã đưa ra những chủ trương đột phá, nhằm thu hút, trọng dụng các chuyên gia, nhà khoa học người Việt Nam ở nước ngoài về nước làm việc, sinh sống. Quốc hội cũng ban hành nhiều Luật mới như Luật Quốc tịch sửa đổi, trong đó tháo gỡ vướng mắc về nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam; đồng thời, giữ quốc tịch nước ngoài cho kiều bào; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, trao quyền tự chủ nhiều hơn cho các cá nhân, tổ chức nghiên cứu khoa học... 

Gần đây nhất, Tổng Bí thư Tô Lâm cũng đã đề nghị khẩn trương đề xuất, kiến nghị những chính sách đãi ngộ đặc biệt, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài có thể tham gia, đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Hơn bao giờ hết, việc phát huy sức mạnh của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng trở nên quan trọng, là một trong những động lực lớn đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới của dân tộc.

Tổng Bí thư Tô Lâm và các đại biểu thực hiện nghi thức ra mắt Tổng Lãnh sự quán Việt Nam Tại thành phố Busan (Hàn Quốc, ngày 13/8/2025).

Trên tinh thần đó, Bộ Ngoại giao sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan tiếp tục tạo khuôn khổ, chính sách pháp lý thuận lợi để các chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài yên tâm gắn bó và đóng góp cho đất nước. Cùng với đó, xây dựng môi trường làm việc thông thoáng, hấp dẫn với kiều bào, cơ sở vật chất đầy đủ, hiện đại, chế độ đãi ngộ phù hợp, không phân biệt khu vực công tư để phát huy tối đa khả năng nghiên cứu, sáng tạo của kiều bào. Đồng thời, đơn giản hóa thủ tục hành chính để kiều bào dễ dàng về nước sinh sống, đầu tư và kinh doanh; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, khoa học công nghệ vào các hoạt động kết nối cộng đồng; bồi dưỡng, hỗ trợ phát triển nguồn lực trí thức kiều bào, trong đó tập trung vào thế hệ trẻ... Tất cả nhằm mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc.

Thủ tướng Phạm Minh Chính và Thủ tướng Australia Anthony Albanese chứng kiến trao văn kiện hợp tác giữa Bộ Ngoại giao Việt Nam và Bộ Ngoại giao Australia (Canberra, ngày 7/3/2024). 

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng đánh giá như thế nào về những lớp cán bộ ngoại giao trẻ ngày nay? Nhân dịp Kỷ niệm 80 năm ngành Ngoại giao Việt Nam, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng có thông điệp gì gửi gắm tới đội ngũ những người làm công tác ngoại giao, trong đó có các cán bộ ngoại giao trẻ, những nhà ngoại giao thế hệ kế cận? 

Bác Hồ đã nói “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Thấm nhuần lời dạy của Bác, ngành Ngoại giao luôn chú trọng công tác xây dựng ngành theo hướng toàn diện, hiện đại, chuyên nghiệp, trong đó có việc xây dựng đội ngũ cán bộ ngoại giao vừa hồng, vừa chuyên.

Các cán bộ ngoại giao trẻ ngày nay là những cán bộ có nền tảng trình độ chuyên môn và ngoại ngữ tốt, năng động, nhiệt huyết với khả năng thích ứng cao, có tinh thần học hỏi, cầu tiến và am hiểu khoa học công nghệ. Điều này đã và đang đáp ứng được các nhu cầu ngày càng tăng trong các mặt của hoạt động đối ngoại. Đây có thể nói là lực lượng kế cận quan trọng trong sứ mệnh quan trọng của đối ngoại là bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc, phục vụ đất nước và nhân dân. Với ý nghĩa đó, các cán bộ trẻ luôn được tạo điều kiện để rèn luyện, phát triển bản thân, cả về đạo đức, chuyên môn, kỹ năng cần thiết để phục vụ yêu cầu ngày càng cao của nền ngoại giao toàn diện, hiện đại.

Lãnh đạo Đảng, Nhà nước trong buổi làm việc với Bộ Ngoại giao.

Ngoại giao là một nghề có nhiều khó khăn, thử thách, nhưng cũng vinh quang. Sứ mệnh của ngoại giao là bảo vệ, đấu tranh, phát huy cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc. Để gách vác được sứ mệnh ấy, Bộ Ngoại giao khuyến khích cán bộ trẻ luôn giữ trong mình “ngọn lửa đam mê”, rèn luyện tinh thần vượt khó, ý thức tự học tập và tự rèn luyện, để “phụng sự đất nước, phục vụ nhân dân”, luôn có ý thức về “đạo đức công vụ”, gương mẫu, dấn thân. 

Đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới, hy vọng đội ngũ cán bộ ngoại giao trẻ sẽ luôn phát huy được phẩm chất cao đẹp của các thế hệ ngoại giao đi trước, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng và vững vàng về tư tưởng chính trị, tinh thông về nghiệp vụ, chuyên môn để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao phó cho ngành Ngoại giao.

Xin trân trọng cảm ơn Phó Thủ tướng, Bộ trưởng! 

Bài: Lê Vân
Ảnh: TTXVN
Trình bày: Nguyễn Hà

22/08/2025 06:00