Vụ mất tích bí ẩn của Michael Rockefeller

Vụ mất tích bí ẩn của Michael Rockefeller-Kỳ 3: Cuộc phiêu lưu kiểu Tom và Huck

Nhóm Harvard trở lại Mỹ vào đầu tháng 9/1961. Trở về nhà, Michael nhận được tin xấu: Cha mẹ ông chuẩn bị ly hôn. Michael Rockefeller chán nản, lao vào dự án nghệ thuật Niu Ghinê đang thai nghén của mình.

Michael chèo thuyền trên sông.


Ông tích cực chuẩn bị cho chuyến trở lại Niu Ghinê để sưu tập các mẫu vật của bộ tộc người Asmat. Ông dự tính tới thăm càng nhiều bản làng càng tốt bằng phương tiện duy nhất là thuyền. Ông sẽ lưu giữ các mẫu vật ở trại đóng tại thị trấn duyên hải Agats.

Để thực hiện chuyến đi, ông cần được nhà chức trách chấp thuận. Việc này khá dễ dàng nhờ người cha quyền lực của ông. Chỉ chưa đầy 2 tuần ở Mỹ, ông đã quay trở lại Niu Ghinê vào cuối tháng 9/1961.

Người Asmat bản địa.

Điểm dừng chân đầu tiên là Hollandia, vùng duyên hải phía bắc Niu Ghinê. Ông được giới thiệu một hướng dẫn viên tên là Rene Wassink, 34 tuổi, đang làm việc cho Cơ quan các vấn đề bản địa của Hà Lan.

Hai người đã tới Merauke, vùng duyên hải phía nam và mua một chiếc thuyền máy của Rob Eibrink Jansen, một quan chức người Hà Lan. Đây là một chiếc thuyền kỳ quặc, thiết kế theo kiểu thuyền mà cảnh sát địa phương dùng để tuần tra trên sông. Thuyền gồm hai chiếc xuồng dài hơn 10 mét được ghép với nhau bằng một chiếc boong bằng tre, trên đó dựng một chiếc lều chỉ đủ che mưa nắng. Thuyền có gắn hai chiếc môtơ ngoài với sức đẩy 18 mã lực và chất đầy can đựng nhiên liệu.

Sau này Jansen kể lại với báo chí Hà Lan rằng, ông đã cảnh báo Michael và Wassink rằng chiếc thuyền bị quá tải, chỉ phù hợp khi chạy trên sông và không an toàn nếu dùng nó trên biển. Ông cũng cảnh báo họ nên tránh đi vào cửa sông Eilanden khi thủy triều lên, nhưng họ đã không nghe ông.

Hollandia – Thủ phủ Niu Ghinê trên bản đồ dưới thời là thuộc địa Hà Lan.

Michael và Wassink bắt đầu hành trình vào giữa tháng 10/1961, và chỉ trong vòng 1 tháng, họ đã đặt chân tới hơn chục bản làng của người Asmat. Michael đã viết nhiều thư về nhà kể về quá trình sưu tầm đồ thủ công của người Asmat.

Michael đặc biệt thích sưu tập sọ người đã được trang trí và tô vẽ. Một quan chức thuộc địa Hà Lan sau này đã nói rằng chính Michael đã tạo ra một thị trường về sọ người và điều này có thể dẫn tới cuộc đổ máu săn đầu người. Được biết, Michael đã đổi hai chiếc rìu sắt và 4 bao thuốc lá cho chiếc thuyền. Thế nhưng, ông đã đổi tới 10 chiếc rìu sắt cho một chiếc sọ người. Vấn đề này không được ông đề cập tới trong các lá thư.

Trong chuyến đi, thực đơn của Michael và Wassink lúc nào cũng giống nhau gồm cơm, thịt bò muối, thịt giăm bông hộp. Họ tắm bằng nước sông và ngủ trong túi ngủ để tránh côn trùng.

Có lần, Michael viết trong thư rằng chuyến đi của ông và bạn đồng hành chẳng khác gì hai cậu bé Tom và Huck trong tác phẩm của nhà văn Mark Twain. Lần khác, ông nói rằng con thuyền của ông không ổn định trong điều kiện gió mùa thổi mạnh. Tuần thứ hai của tháng 11/1961, Michael viết thư nói rằng ông hy vọng được đón Giáng sinh ở nhà sau khi thăm thêm một vài ngôi làng nữa.

Chuyến hành trình cuối cùng của họ dừng chân tại Atsj, nơi sinh sống của khoảng 1.500 người, cách nơi họ cắm trại ở Agats 35 dặm. Đến đây, họ bị viên cảnh sát Henri Watrin cảnh báo rằng chiếc thuyền đã quá tải khi chất đầy rìu sắt, dao phát rẫy, dao nhọn, thuốc lá, lưỡi câu, quần áo, nước, thực phẩm và nhiên liệu.

Watrin nói với Michael: “Ông không thể đi với con thuyền như thế. Tôi cấm ông. Ông phải dỡ bớt đồ xuống hoặc không được phép đi”. Michael trả lời: “Vâng, vâng, tôi sẽ lấy bớt đồ xuống”. Nhưng khi viên cảnh sát đi chỗ khác, Michael đã đẩy thuyền đi, khi chiếc thuyền vẫn trong tình trạng quá tải vào trưa ngày thứ 7 ngày 18/11/1961. Trên thuyền lúc đó có Wassink, Michael cùng hai cậu bé người Asmat là Simon và Leo.

Quang Tuyến

Đón đọc kỳ cuối: Vụ mất tích bí ẩn

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN