Trao đổi, PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh, giảng viên Trường Đại học Khoa học -Đại học Huế, chia sẻ góc nhìn về vai trò của lễ hội và những điều kiện để lễ hội trở thành nguồn lực phát triển bền vững.
Thưa ông, ông đánh giá thế nào về kho tàng lễ hội của các dân tộc thiểu số tại thành phố Huế trong gắn kết với du lịch?
Tại thành phố Huế có dân tộc Pa Cô, Tà Ôi, Vân Kiều và người Cơ Tu. Sống vùng rừng núi Trường Sơn, đồng bào tạo nên đời sống văn hóa tinh thần phong phú, đặc biệt là lễ hội. Có lễ hội liên quan đến chu kỳ sản xuất nương rẫy; có lễ hội liên quan chu kỳ đời người như sinh đẻ, làm nhà, cưới xin, tang ma; có lễ hội liên quan đến núi rừng như lễ cúng rừng; có lễ hội liên quan quan hệ cộng đồng như lễ hội kết nghĩa anh em. Nhiều lễ hội không mất đi mà chuyển từ tổ chức quy mô buôn làng sang duy trì ở quy mô gia đình.
Vai trò của lễ hội trong việc gìn giữ các di sản khác thể hiện như thế nào, thưa ông?
Lễ hội là không gian để các di sản văn hóa được giữ gìn: nghệ thuật tạo hình như cây nêu được phục dựng; nghệ thuật ca múa nhạc và các hình thức trình diễn; các loại nhạc cụ; món ăn truyền thống; trang phục truyền thống. Đặc biệt, lễ hội tạo nên không gian gắn kết cộng đồng: gắn kết con người với thần linh, với ông bà tổ tiên, và gắn kết con người với núi rừng, với môi trường sống. Đồng bào nhận thức được điều đó nên vẫn duy trì lễ hội trong đời sống.
Ở A Lưới, du khách tham dự lễ hội tạo ra động lực gì cho địa phương, thưa ông?
A Lưới trong thời gian qua hoạt động du lịch có nhiều khởi sắc. Khách du lịch trong nước và quốc tế đến tham quan không gian núi rừng, tham quan văn hóa của tộc người. Đặc biệt, họ tham dự các lễ hội Ariêuping, Aza Koonh, Aza Kan, lễ hội cơm mới, lễ hội Tết của đồng bào, hay các lễ hội cúng rừng. Các trải nghiệm này tạo thành điểm đến hút khách và cho thấy công tác bảo tồn, phát huy lễ hội truyền thống đã có kết quả.
Khai thác lễ hội để xây dựng sản phẩm du lịch có vai trò thế nào đối với bảo tồn, thưa ông?
Phát triển lễ hội gắn với du lịch có vai trò rất quan trọng. Lễ hội gắn với du lịch vừa đưa du khách về với vùng đất, thiên nhiên, cảnh vật địa phương, vừa tạo nguồn thu cho dân. Từ nguồn thu, người dân có thêm niềm tin và tham gia tổ chức lễ hội tốt hơn. Khi lễ hội tổ chức tốt, các nội dung bảo tồn văn hóa lại được phát huy, từ trang phục, ẩm thực, nhà cửa đến các điệu múa hát. Nguồn thu du lịch quay trở lại tác động tích cực, thúc đẩy cho lễ hội phát triển và củng cố việc bảo tồn.
Để biến lễ hội thành sản phẩm du lịch mà không mất giá trị cốt lõi, theo ông cần làm gì?
Phải có quy trình. Một là tổng kiểm kê, đánh giá. Hai là giải bài toán về các giá trị du lịch ở trong lễ hội. Ba là công tác quảng bá, marketing và sử dụng công nghệ để xây dựng, hình thành các tour phù hợp. Bốn là “liên kết 4 nhà”: chính quyền, nhà khoa học, doanh nghiệp lữ hành và người dân. Làm được như vậy sẽ vừa đảm bảo tính chân thực, vừa hạn chế nguy cơ thương mại hóa biến tướng. Từ thực tiễn vùng cao Huế, có thể thấy lễ hội là nguồn lực phát triển khi được tổ chức đúng cách, đặt cộng đồng làm chủ thể và có cơ chế phối hợp rõ ràng giữa các bên.
Xin trân trọng cảm ơn ông!