Bệnh nhi viêm não được chăm sóc tại phòng cấp cứu, Bệnh viện Nhi Trung ương. Ảnh: BV |
Nhiều trẻ hôn mê, liệt nửa người
Theo TS.BS Nguyễn Văn Lâm, Trưởng khoa Truyền nhiễm, viêm não Nhật Bản được xem là một trong những bệnh nguy hiểm, có tỉ lệ tử vong và để lại di chứng cao ở trẻ nhỏ (từ 25-35%). Những di chứng này khiến người bệnh giảm khả năng giao tiếp, giảm hoặc mất khả năng lao động, trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Khoa Truyền nhiễm đang điều trị cho hai trường hợp mắc viêm não Nhật Bản, cả hai bệnh nhi này đều phải gánh chịu một trong những di chứng nặng nề của bệnh.
Đơn cử như bệnh nhi Nguyễn Quốc Đạt (4 tuổi, Bắc Ninh), trước khi nhập viện 3 ngày, cháu Đạt xuất hiện sốt cao 400C. Gia đình đã cho cháu dùng thuốc hạ sốt song không hiệu quả. Sau đó 2 ngày, bệnh nhi trở nên li bì, co giật nhiều. Khi được đưa đến Bệnh viện Nhi Trung ương, cháu đã rơi vào tình trạng hôn mê, liệt nửa người phải.
Sau khi tiến hành thăm khám, chọc dịch não tủy, làm các xét nghiệm, các bác sĩ chẩn đoán bé Đạt mắc viêm não Nhật Bản. Đến nay, sau 17 ngày được điều trị bằng thở oxy, dùng thuốc chống phù não, cháu Đạt đã tỉnh táo, không sốt nhưng có di chứng về vận động. Người nhà cho biết, cháu Đạt chưa được tiêm vắcxin phòng bệnh.
Mang di chứng nặng hơn, cháu Đào Khánh Long (7 tuổi, Nghệ An), dù đã qua 14 ngày điều trị bằng thở máy, thuốc chống viêm, chống phù, nhưng Long vẫn xuất hiện những di chứng nặng như liệt cơ hô hấp, liệt tứ chi. Gia đình cháu đang vô cùng lo lắng vì tuy đã mở được mắt song Long vẫn phải phụ thuộc vào máy thở.
Ngày 12/6, bệnh nhi được chuyển tuyến đến Bệnh viện Nhi Trung ương khi bệnh đã diễn biến đến ngày thứ 10, cháu phải đặt nội khí quản và liệt vận động toàn thân. Trước đó, sáng ngày 2/6, cháu Long đột ngột sốt cao 390C - 400C. Gia đình cho cháu uống thuốc hạ sốt thì thấy nhiệt độ có hạ nhưng hai ngày sau, bé liên tục kêu đau đầu, đau hốc mắt, có biểu hiện sợ ánh sáng.
Đưa con vào Bệnh viện tỉnh Nghệ An, cha mẹ cháu được các bác sĩ thông báo Long mắc viêm não Nhật Bản. Bệnh nhi sau đó được tiến hành điều trị kháng sinh, chống phù não nhưng tình trạng sức khỏe không tiến triển. Sau 3 ngày, cháu xuất hiện hôn mê, thở ức chế. Các bác sĩ bệnh viện tỉnh đã tiến hành đặt nội khí quản và cho bệnh nhi thở máy. Hai ngày sau đó, cháu được chuyển đến Bệnh viện Nhi Trung ương trong tình trạng rất nặng.
Cần chủ động tiêm phòng vắcxin
TS.BS Nguyễn Văn Lâm, Trong khi, ở Việt Nam, muỗi Culex tritaeniorhynchus, loại muỗi truyền bệnh viêm não Nhật Bản thường sinh sản mạnh vào mùa hè (nhất là từ tháng 3 - tháng 7); do đó, thời điểm này, người dân cần chủ động phòng, chống bệnh dịch cho gia đình, nhất là trẻ nhỏ.
“Hiện nay, tuy đa số các trẻ đã được tiêm phòng đầy đủ nhưng vẫn còn rải rác các trường hợp trẻ mắc bệnh do sức đề kháng kém, chưa tiêm vắcxin phòng bệnh hoặc tiêm không đủ số mũi. Trong khi, tiêm chủng là biện pháp tốt nhất để phòng viêm não Nhật Bản. Các bậc cha mẹ cần tiêm cho trẻ 2 lần cách nhau từ 7 - 14 ngày, sau đó 1 năm nhắc lại mũi thứ 3, cứ mỗi 3 -4 năm tiêm nhắc lại. Bên cạnh đó, cần ăn uống hợp vệ sinh, nâng cao thể trạng, nằm màn tránh muỗi đốt. Chủ động vệ sinh môi trường, tích cực diệt muỗi, bọ gậy”, TS.BS Nguyễn Văn Lâm nhấn mạnh.
Cần lưu ý, bệnh viêm não Nhật Bản thường khởi phát rất đột ngột với triệu chứng sốt cao 39 độ C hoặc hơn. Trong thời kỳ này, bệnh nhân đau đầu, đau bụng, buồn nôn và nôn. Ngay trong 1 -2 ngày đầu của bệnh, bệnh nhi đã xuất hiện cứng gáy, tăng trương lực cơ, rối loạn sự vận động nhãn cầu, lú lẫn hoặc mất ý thức. Ở một số trẻ nhỏ tuổi, ngoài sốt cao có thể thấy đi ngoài phân lỏng, đau bụng, nôn.
Ở thời kỳ toàn phát,virus xâm nhập vào tế bào não tuỷ gây huỷ hoại các tế bào thần kinh. Lúc này, các triệu chứng không giảm mà lại tăng lên, bệnh nhân đi vào hôn mê sâu dần. Các triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật cũng tăng lên như vã nhiều mồ hôi, da lúc đỏ, lúc tái, rối loạn nhịp thở và tăng tiết trong lòng khí quản, mạch thường nhanh và yếu. Thời kỳ toàn phát diễn ra ngắn, bệnh nhân nhanh chóng rơi vào tình trạng hôn mê sâu với rối loạn các chức năng sống. Những bệnh nhân vượt qua được thời kỳ này thì tiên lượng tốt hơn.
Bước sang tuần thứ 2 của bệnh, bệnh nhân đỡ dần, nhiệt độ giảm từ sốt cao xuống sốt nhẹ. Vào khoảng ngày thứ 10 trở đi, nhiệt độ bệnh nhân trở về bình thường nếu không có bội nhiễm vi khuẩn khác. Bệnh nhân từ hôn mê dần dần tỉnh, không còn những cơn co cứng, bệnh nhân hết nôn và đau đầu.
Bệnh nhân có thể xuất hiện những biến chứng sớm như: Viêm phế quản, viêm phổi hoặc viêm phế quản - phổi do bội nhiễm hoặc viêm bể thận, bàng quang do thông tiểu hoặc đặt sonde dẫn lưu; loét và viêm tắc tĩnh mạch do nằm lâu và rối loạn dinh dưỡng. Những di chứng sớm có thể gặp là bại hoặc liệt nửa người, mất ngôn ngữ, múa giật, múa vờn, rối loạn phối hợp vận động, giảm trí nhớ nghiêm trọng, rối loạn tâm thần, vận động.
Từ cuối tuần thứ 2 trở đi là thời kỳ của những biến chứng và di chứng muộn. Những biến chứng muộn có thể gặp gồm: Loét nhiễm trùng, rối loạn giao cảm, rối loạn chuyển hoá. Những di chứng muộn có thể gặp là động kinh, nghe kém hoặc điếc, rối loạn thâm thần…