Mức sinh không đều
Trong hơn 25 năm qua, nhờ công tác kế hoạch hóa gia đình, Việt Nam đã hạn chế việc tăng thêm gần 27 triệu người, tương đương với dân số của 27 tỉnh có quy mô dân số trung bình ở nước ta hiện nay. Điều này có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, nâng cao mức thu nhập bình quân đầu người, nâng cao các chỉ số sức khỏe, chất lượng cuộc sống của người dân Việt Nam.
Tuy nhiên, trên thực tế, con số này chưa phản ánh đúng bản chất mức sinh ở nước ta không đồng đều theo từng vùng. Theo thống kê, miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên là những vùng có tỷ suất sinh rất cao. Nếu tỷ suất sinh thô cả nước hiện là 16 đến 17‰, tỷ suất sinh ở các tỉnh này lên đến gần 30‰. Nhiều tỉnh như: Hà Giang, Lai Châu, Hà Tĩnh, Đắk Lắk…, có tổng tỷ suất sinh ở mức khoảng ba con. Thậm chí có những nơi, người dân sinh tới sáu, bảy con. Các tỉnh này đang phải kiên trì thực hiện các biện pháp giảm sinh, muốn giảm mức sinh được từ 3 con xuống 2,1 con là con đường dài, gian nan, vất vả.
Trong khi đó, vùng Đông Nam Bộ, Đồng bằng Sông Cửu Long lại có mức sinh thấp hơn nhiều so với mức sinh thay thế (1,5 - 1,6 con), như: Đồng Tháp (1,57 con); Cần Thơ (1,58 con); Cà Mau (1,62 con); Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu (1,7 con)... Trong đó, Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có tổng tỷ suất sinh thấp nhất, chỉ 1,33 con – mức đáng báo động. Trong 20 năm qua, tổng tỷ suất sinh của thành phố liên tục giảm, từ 1,76 (năm 2000) xuống còn 1,33 con. Điều này tác động mạnh đến cơ cấu dân số thành phố trong tương lai, tỷ lệ người trẻ và người trong độ tuổi lao động ngày càng giảm, trong khi tỷ lệ người cao tuổi ngày càng cao, làm gia tăng tốc độ già hóa dân số tại thành phố.
Phân tích nguyên nhân dẫn đến mức sinh thấp, nhiều chuyên gia cho rằng, áp lực của cuộc sống, công việc khiến xu hướng kết hôn muộn, sinh con muộn, sinh ít con và không muốn sinh con ngày càng gia tăng. Việc nuôi dạy, chăm sóc con cái hiện cần nhiều chi phí dẫn đến tâm lý sợ tốn kém nên nhu cầu sinh con giảm. Mặt khác, tốc độ đô thị hóa nhanh và phát triển kinh tế cũng dẫn đến áp lực cho các gia đình trong tìm kiếm việc làm, nhà ở, chi phí sinh hoạt... Trình độ học vấn, điều kiện sống được cải thiện, lối sống theo trào lưu, tâm lý thích hưởng thụ, thích dịch chuyển cũng có tác động nhất định đến mức sinh thấp. Tình trạng phá thai, tỷ lệ vô sinh có xu hướng gia tăng cũng tác động đến việc nhiều gia đình không thể sinh con…
Sớm hoàn thiện Đề án điều chỉnh mức sinh giữa các vùng
Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế) Nguyễn Doãn Tú cho biết, Việt Nam đang trong thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”, với trên 62 triệu người trong độ tuổi lao động nhưng đồng thời cũng bắt đầu bước vào thời kỳ già hóa dân số với số người từ 60 tuổi trở lên chiếm 10,5% dân số. Tuy đã đạt mức sinh thay thế, tốc độ gia tăng dân số đã được kiểm soát nhưng Liên hợp quốc dự báo, thời gian tới, mức sinh của nước ta còn biến động khó lường: Hoặc là tăng trở lại hoặc là tiếp tục giảm xuống mức rất thấp như một số nước đã gặp phải. Cả hai giả định đều gây hệ lụy không tốt đến nhân khẩu học, tác động xấu đến sự phát triển kinh tế - xã hội cho hiện tại và tương lai. Mặt khác, thực trạng, xu hướng tiếp tục chênh lệch mức sinh giữa các địa phương sẽ gây ra sự bất lợi về nhân khẩu học trong tương lai, càng làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các địa phương trong cả nước.
Ông Nguyễn Doãn Tú cho rằng, cần phải có chính sách khuyến sinh cho các tỉnh, thành phố có mức sinh thấp nghiêm trọng. Thực tế, một số quốc gia có mức sinh thấp trên thế giới đã có những chính sách khuyến sinh nhằm hạn chế mức sinh tiếp tục xuống quá thấp. Chẳng hạn, Nhật Bản mỗi năm đầu tư khoảng 18 tỷ USD cho việc khuyến sinh. Hàn Quốc đã bỏ ra vài tỷ USD để đẩy mức sinh lên. Singapore có những gói hỗ trợ nhà ở cho người sinh thêm con. Tuy nhiên, nước ta cần duy trì vững chắc mức sinh thay thế, giữ mức sinh đồng đều giữa các vùng, khu vực, không để mức sinh tụt quá thấp, nhất là ở các tỉnh, thành phố đang có mức sinh thấp và có xu hướng tiếp tục giảm sinh. Kinh nghiệm tại một số quốc gia cho thấy, một khi mức sinh xuống rất thấp, rất khó để tăng trở lại dù có chi khoản phí lớn để khuyến sinh. Hiện, chưa có nước nào thành công trong việc đưa mức sinh từ thấp về cao.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội Bùi Sỹ Lợi cho rằng, dân số tăng theo tỉ lệ mức sinh thay thế nhưng phải quản được hai vấn đề: Tăng quá cao phải kìm xuống, còn không chịu tăng, phải khuyến khích, có chính sách để sinh đạt 2 con nhằm cân đối lực lượng dân số, không để xảy ra tình trạng dân số di cư quá nhiều từ nông thôn lên thành thị. Đô thị cũng như nông thôn, nếu bảo đảm mức sinh thay thế, dòng chuyển dịch tự do lao động ít đi, nếu không sẽ nảy sinh ra nhiều vấn đề xã hội, nhà ở cho lao động thu nhập thấp, nhà ở cho người nhập cư, tệ nạn xã hội, giao thông... Vì vậy, đất nước phát triển, nền kinh tế tăng trưởng tốc độ cao, chất lượng nguồn nhân lực phải đáp ứng nhu cầu.
Trước tình hình mức sinh giữa các vùng có sự chênh lệch lớn, Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình Nguyễn Doãn Tú nhấn mạnh: Tổng cục đang khẩn trương hoàn thiện Đề án điều chỉnh mức sinh giữa các vùng. Nội dung Đề án sẽ tập trung vào việc khuyến sinh ở vùng có mức sinh thấp; tiếp tục vận động giảm sinh ở nơi có mức sinh cao, thực hiện duy trì mức sinh ở những địa phương đã đạt mức sinh thay thế. Đối tượng, quá trình thực hiện điều chỉnh như thế nào sẽ được đề cập cụ thể trong Đề án này. Hiện, quy mô dân số của nước ta còn lớn, do vậy cần có sự điều chỉnh, hướng dẫn để tránh tình trạng người dân hiểu lầm, gây ra phản ứng ngược khiến mức sinh tăng trở lại, nhất là ở những vùng đang có mức sinh cao.
Ông Nguyễn Doãn Tú nêu rõ để duy trì mức sinh thay thế đúng theo tinh thần Nghị quyết 21-NQ/TW và Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030, điều quan trọng nhất là người dân cần hiểu, thực hiện đúng theo thông điệp: "Mỗi cặp vợ chồng nên sinh đủ hai con” để duy trì vững chắc mức sinh thay thế, tập trung nuôi dạy con cái được tốt nhất.