Hồi sinh, phát triển rừng ngập mặn Cần Giờ: Gìn giữ, phát triển 'bể carbon xanh'

Là huyện duyên hải của TP Hồ Chí Minh, Cần Giờ có khu rừng ngập mặn phát triển trên nền phù sa do hệ thống sông Sài Gòn, Đồng Nai mang đến, kết hợp khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, chế độ thủy triều bán nhật triều, mật độ sông rạch dày đặc đan xen nhau. Với nhiều giá trị đặc biệt, rừng ngập mặn Cần Giờ đã trở thành Khu Dự trữ sinh quyển đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận vào năm 2000, được đánh giá là nơi có hệ sinh thái đa dạng sinh học cao, phong phú cả về số lượng và chủng loại, khu rừng trồng tập trung phục hồi lớn và đẹp nhất Đông Nam Á.

Chú thích ảnh
Rừng ngập mặn Cần Giờ trở thành Khu Dự trữ sinh quyển đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận vào năm 2000. Ảnh: Hồng Đạt/TTXVN

Đây là sự hồi sinh kỳ diệu, bởi trong những năm tháng chiến tranh, nơi đây đã hứng chịu hàng triệu lít chất hóa học, hàng ngàn tấn bom đạn, những cánh rừng bạt ngàn đã biến thành vùng đất hoang hóa, khô cằn. Nguồn tài nguyên động, thực vật và thủy hải sản gần như bị hủy diệt, môi trường sinh thái ô nhiễm trầm trọng.

Bài 1: Gìn giữ, phát triển “bể carbon xanh”

Rừng ngập mặn Cần Giờ hôm nay đã hồi sinh diệu kỳ từ những quyết sách đúng đắn của Đảng bộ, chính quyền TP Hồ Chí Minh, nỗ lực của các cấp, ngành, đặc biệt là cán bộ trực tiếp quản lý và những hộ dân xem rừng như “duyên nợ” khó có thể rời xa. Sau gần 50 năm được phục hồi, bảo vệ và phát triển (từ năm 1978 đến nay) hệ sinh thái rừng ngập mặn Cần Giờ đã được phục hồi hoàn toàn, được các chuyên gia, nhà khoa học đánh giá là khu rừng ngập mặn phục hồi nhanh với quy mô lớn từ sức người, có chỉ số đa dạng sinh học cao trong khu vực.

Đời người - đời rừng

Là người gắn bó nhiều năm với rừng ngập mặn Cần Giờ, Tiến sĩ Huỳnh Đức Hoàn, Trưởng Ban Quản lý rừng phòng hộ Cần Giờ, Phó trưởng Ban Quản lý Khu Dự trữ sinh quyến thế giới rừng ngập mặn Cần Giờ khẳng định: Rừng Cần Giờ được xem là “bể carbon xanh, lá phổi xanh” làm nên "bức tường xanh" vững chắc bảo vệ môi trường cho TP Hồ Chí Minh và các địa phương lân cận.

Hiện nay, Ban Quản lý rừng phòng hộ Cần Giờ quản lý trực tiếp vùng lõi và vùng đệm Khu Dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn Cần Giờ. Để quản lý, bảo vệ diện tích hơn 34.800 ha rừng và đất quy hoạch phát triển rừng được giao, Ban thực hiện chính sách giao khoán rừng cho tổ chức và hộ gia đình nhận khoán bảo vệ, còn một phần diện tích do đơn vị tự tổ chức lực lượng bảo vệ theo chủ trương của Thành phố.

Ngồi trên chiếc ca nô lướt băng băng trên sông Dần Xây, đưa khách đến thăm các chốt giữ rừng vào một sáng đầu Xuân, Thạc sĩ Bùi Nguyễn Thế Kiệt, Trưởng phòng Quản lý phát triển tài nguyên (Ban Quản lý Rừng phòng hộ Cần Giờ) giới thiệu nhanh: Trước năm 1964, rừng ngập mặn này là khu rừng nguyên sinh với tài nguyên động, thực vật, thủy sản rất phong phú và đa dạng, đặc biệt là sự phát triển mạnh của các loài thực vật ưu thế như đước đôi, bần, mắm, cóc trắng... Thế nhưng, giai đoạn 1964 - 1968, hệ sinh thái rừng ngập mặn nơi đây gần như bị hủy diệt hoàn toàn, do bom đạn và hợp chất hóa học. Giờ đây, sau rất nhiều nỗ lực, với sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị của Thành phố, sự gắn bó của ba nhà “Nhà nước, Nhà khoa học và Nhà nông”, hệ sinh thái rừng đã được phục hồi ngoạn mục.

Dừng chân tại chốt giữ rừng số 5 (thuộc tiểu khu 3, phân khu I), thăm gia đình anh chị Nguyễn Văn Lới, Nguyễn Thị Loan - những người thuộc thế hệ giữ rừng thứ hai ở Cần Giờ, chúng tôi cảm nhận rõ hơn tinh thần lạc quan, sẵn sàng vượt khó, vượt khổ để gắn bó với rừng. Họ thân thuộc từng thân cây, hướng gió, mực nước trong khu rừng ngập mặn. Chị Loan chia sẻ: Cha của chị tham gia giữ rừng từ năm 1993. Tuổi thơ gắn bó với rừng ngập mặn cùng cha, lớn lên lập gia đình, làm đám cưới cũng ở rừng, chị thấy mình như có duyên với từng cây đước, cây mắm, con ba khía trong khu rừng ngập mặn. Bây giờ, vợ chồng chị Loan thay cha nhận khoán trông giữ, bảo vệ gần 80ha rừng. Hằng ngày, chị cùng chồng đi tuần tra, quan sát tỉ mỉ từng cây rừng, kịp thời phát hiện và báo về quản lý phân khu những dấu hiệu bất thường như có người lạ xâm nhập hay cây có dấu hiệu bị sâu đục thân, bị ngã đổ… Chị chia sẻ, ở trong rừng nước ngọt khan hiếm, phải mua với giá hơn 100.000 đồng/m3. Các chốt giữ rừng lại xa khu dân cư, mua sắm thực phẩm, đồ dùng thiết yếu còn khó khăn. Đôi lúc, chị cũng chạnh lòng vì chẳng được đi đó đi đây nhưng nghĩ cho cùng thấy mình được các cơ quan chức năng, chính quyền chăm lo chu đáo, có lương, chế độ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, vợ chồng chị rất yên tâm. “Mình là người giữ lá phổi xanh. Mình cũng đóng góp một phần quan trọng trong xã hội chứ !”- chị Loan hóm hỉnh nói thêm.

Chia tay gia đình chị Loan, anh Lới, xuống ca nô, ra sông Lòng Tàu, chúng tôi đến chốt số 1 (thuộc tiểu khu 6 B, phân khu 3) thăm gia đình chị Phan Thị Oanh và chồng là anh Lê Hoàng Anh. Chị Oanh là người dân tộc Mường, quê ở huyện miền núi Ngọc Lặc (tỉnh Thanh Hóa) về làm dâu xứ biển Cần Giờ. Như một cái “duyên”, dù xứ biển nhưng trên quê mới Cần Giờ, cuộc sống của chị Oanh vẫn gắn rừng. Hiện tại, gia đình chị Oanh đang nhận khoán bảo vệ hơn 79 ha rừng ngập mặn. Chị tâm sự, khi còn nhỏ ở quê chỉ quen rừng vùng Bắc Trung Bộ với những cây luồng, lồ ô trên đất khô. Lớn lên, một thời gian đi làm công nhân ở Bình Dương, tưởng đã xa rừng. Thế rồi, về làm dâu trong gia đình có ba thế hệ giữ rừng Cần Giờ, chị lại gắn bó với rừng từ hơn mười năm nay. Chị nói: “Giờ tôi không còn lạ khi thấy rừng ngập mặn, đất sình lầy, cây đước có bộ rễ luôn nổi lên trên đất, không lạ khi nghe nói nước lớn, nước ròng và đi tuần tra rừng là phải xuống vỏ lãi, ca nô theo sông, rạch chứ chẳng có đường bộ như rừng ngoài Thanh Hóa. Vất vả thì nhiều, nhưng tôi chỉ nghĩ đơn giản, mình thấy phù hợp, yêu rừng lại có lương từ việc bảo vệ rừng thế là đủ gắn bó dài lâu”.

Hồi sinh, phát triển “Lá phổi xanh”

Chú thích ảnh
Khung cảnh đặc trưng trong rừng ngập mặn Cần Giờ. Ảnh: Huyền Trinh/TTXVN

Trước ngày 30/4/1975, Cần Giờ vốn là một quận của thành phố Sài Gòn, xung quanh đồn bốt địch, là vùng dân cư nghèo nàn. Cùng với đó, hơn 2 triệu tấn bom đạn, 4 triệu lít chất độc hóa học của địch rải xuống đã biến rừng ngập mặn thành bình địa trơ trọi, hệ sinh thái rừng, môi trường bị tàn phá. Sau ngày 30/4/1975 huyện Duyên Hải, tỉnh Đồng Nai được thành lập từ quận Cần Giờ và quận Quảng Xuyên. Ngày 29/12/1978, Quốc hội khóa VI đã ban hành Nghị quyết, phê chuẩn huyện Duyên Hải sáp nhập vào TP Hồ Chí Minh và đổi tên thành huyện Cần Giờ.

Với tầm nhìn chiến lược, Thành ủy, UBND Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết tâm chỉ đạo khẩn trương khôi phục lại hệ sinh thái rừng ngập mặn, đặt ra yêu cầu phủ xanh diện tích bị hủy hoại trước đây trong thời gian ngắn nhất với loài cây thích hợp. Trải qua quá trình nỗ lực của cả hệ thống chính trị, nhân dân, hệ sinh thái rừng ngập mặn tại Cần Giờ đã được phục hồi, hệ động thực vật đa dạng, phong phú đã hồi phục gần như nguyên vẹn. Đến thời điểm này, toàn bộ Khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn Cần Giờ có tổng diện tích khoảng trên 75.000ha gồm cả vùng lõi, vùng đệm và vùng chuyển tiếp.

Tiến sĩ Huỳnh Đức Hoàn, Trưởng Ban Quản lý rừng phòng hộ Cần Giờ, Phó trưởng Ban Quản lý Khu dự trữ sinh quyến thế giới rừng ngập mặn Cần Giờ thông tin: Ban Quản lý rừng phòng hộ Cần Giờ là đơn vị được giao nhiệm vụ quản lý trực tiếp vùng lõi và vùng đệm Khu Dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn Cần Giờ. Hiện nay diện tích rừng phòng hộ Cần Giờ đạt trên 34.800ha, là ngôi nhà chung của gần 1.800 loài sinh vật sống ở các môi trường trên cạn, trên không, dưới nước, bãi triều, trong bùn và trên cơ thể các sinh vật khác. Riêng khu hệ thực vật đã có gần 320 loài, trong đó có 35 loài cây ngập mặn thực sự, ngoài ra là các loài cây tham gia rừng ngập mặn và loài cây nhập cư. Khu hệ động vật gồm rất nhiều loài như thú, chim, bò sát, lưỡng cư, côn trùng, cá, động vật đáy, động vật thủy sinh không xương, các loài và nhóm động vật nổi, các loài thuộc ngành tảo lam, tảo silic và tảo giáp.

Rừng ngập mặn Cần Giờ đóng vai trò rất quan trọng việc giảm thiểu tác hại của sóng, bão lụt, điều hòa khí hậu, giúp tích tụ carbon, cân bằng O2 và CO2 trong khí quyển, điều hòa khí hậu khu vực (nhiệt độ, lượng mưa) và giảm thiểu khí nhà kính, ngăn ngừa xói mòn và mở rộng đất bồi, hạn chế xâm nhập mặn, phân hủy chất thải, giảm thiểu ô nhiễm môi trường vùng cửa sông, ven biển, duy trì tính đa dạng sinh học, Thạc sĩ Bùi Nguyễn Thế Kiệt, Trưởng phòng Quản lý phát triển tài nguyên (Ban Quản lý rừng phòng hộ Cần Giờ) cho biết thêm.

Chú thích ảnh
Rừng ngập mặn Cần Giờ góp phần điều hòa không khí, bảo vệ môi trường sống của người dân TP Hồ Chí Minh và các vùng lân cận. Ảnh: Hồng Đạt/TTXVN

Xác định việc hồi sinh rừng đã quan trọng, việc gìn giữ, bảo vệ, phát triển rừng cũng quan trọng không kém, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu đang đặt ra nhiều thách thức mới, Ban Quản lý rừng phòng hộ Cần Giờ triển khai đồng bộ nhiều nhiệm vụ. Theo Tiến sĩ Huỳnh Đức Hoàn, đơn vị phối hợp với các đơn vị liên quan thực hiện hoặc đề xuất thực hiện nhiều nghiên cứu chuyên sâu định hướng cho việc phát triển bền vững hệ sinh thái rừng ngập mặn để thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, xây dựng khu rừng đa tầng, tán, đa dạng loài nhằm bảo tồn đa dạng sinh học. Đồng thời, đơn vị đề xuất triển khai nghiên cứu chuyên sâu về những giá trị của dịch vụ hệ sinh thái đối với rừng ngập mặn Cần Giờ phục vụ quản lý và phát triển bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên, nghiên cứu khoa học và truyền thông giáo dục môi trường, đánh giá hiệu quả về kinh tế, xã hội và môi trường.

Ban Quản lý rừng phòng hộ Cần Giờ tiếp tục quản lý, bảo vệ chặt diện tích rừng hiện có, đẩy mạnh thực hiện phối hợp cụm giáp ranh, phối hợp liên tịch theo địa bàn xã, phối hợp giữa chủ rừng với các lực lượng trong tuần tra bảo vệ rừng để bảo vệ hiệu quả “lá phổi xanh” vô giá./.

Bài 2: Phát triển kinh tế xanh gắn với bảo vệ môi trường

Hồng Đạt - Thanh Trà - Huyền Trinh (TTXVN)
Tạo môi trường và sinh kế bền vững từ rừng ngập mặn
Tạo môi trường và sinh kế bền vững từ rừng ngập mặn

Phó Chủ tịch UBND huyện Núi Thành (Quảng Nam) Ngô Đức An cho biết, rừng ngập mặn của Núi Thành có trên 100 ha, tập trung ở các xã Tam Giang, Tam Quang, Tam Hải, Tam Tiến. Rừng ngập mặn không chỉ có vai trò trong việc chống sạt lở, ngăn chặn cát bay mà còn là nguồn sinh kế của cộng đồng ở địa phương.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN