Tham dự có: Đại diện của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, các tỉnh, thành phố trên cả nước và đông đảo các nhà khoa học.
Hội thảo nhằm làm rõ những hạn chế, bất cập về cơ chế, chính sách hỗ trợ, thúc đẩy và nhân rộng các mô hình xã hội hóa công tác thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt, phù hợp với điều kiện thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt. Đồng thời, cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả các Chính sách liên quan và Chiến lược quốc gia về Quản lý chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, Viện trưởng Viện Địa lý, Tiến sĩ Nguyễn Song Tùng cho biết, trong thời gian qua, vấn đề về chất thải rắn, đặc biệt là chất thải rắn sinh hoạt nông thôn là vấn đề bức xúc của nhiều địa phương trên cả nước. Hầu hết chất thải rắn sinh hoạt này không được phân loại tại nguồn. Vì vậy tỷ lệ thu hồi chất thải có khả năng tái chế và tái sử dụng như giấy vụn, kim loại, nhựa... còn thấp và chủ yếu tự phát.
Xã hội hóa quản lý chất thải rắn sinh hoạt nông thôn, đang được triển khai ở nhiều địa phương nhưng hoạt động chưa hiệu quả và không bền vững, là do những hạn chế về cơ chế, chính sách khuyến khích xã hội hóa. Việc huy động các nguồn lực tham gia công tác xã hội hóa quản lý chất thải rắn nông thôn còn gặp nhiều khó khăn như: thu nhập của người thu gom rác ở nông thôn rất thấp; chưa được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, nhiều nơi chưa có bảo hộ lao động...
Bên cạnh đó, các tổ chức dịch vụ môi trường nông thôn chưa đủ năng lực để giải quyết trọn vẹn các vấn đề quản lý chất thải. Hầu hết các tổ chức xã hội ở nông thôn mới chỉ thực hiện được các nội dung về tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng, tổ chức thu gom chất thải mà chưa có các biện pháp xử lý dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường do chất thải ngày càng gia tăng. Việc quản lý chất thải rắn chưa có chính sách để thu hút các nhà đầu tư thuộc khu vực ngoài nhà nước tham gia; chưa tạo được cho người dân ý thức, thói quen bảo vệ môi trường...
Bàn về Quy định quản lý chất thải rắn sinh hoạt trong Luật Bảo vệ môi trường 2020 và vai trò cộng đồng dân cư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thế Chinh, nguyên Viện trưởng, Viện Chiến lược Chính sách Tài Nguyên và Môi trường cho rằng, những Quy định, Nghị định và Thông tư về Quản lý chất thải rắn trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã nêu rõ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân trong hoạt động giảm thiểu chất thải rắn sinh hoạt phát sinh tại nguồn.
Để đạt được hiệu quả cao trong việc thực thi Luật, cần nâng cao năng lực thực hiện của địa phương; vai trò đồng thuận của người dân và xã hội trong việc cùng thực hiện quản lý chất thải rắn sinh hoạt theo quy định của pháp luật; tăng cường hạ tầng kỹ thuật và công nghệ đảm bảo thực hiện tốt cho công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt, nhất là công tác giám sát, thanh tra... Hàng năm cơ quan quản lý môi trường của Nhà nước nên có đánh giá về thực hiện pháp luật Bảo vệ môi trường đối với quản lý chất thải rắn sinh hoạt, từ đó có những điều chỉnh phù hợp nhất là đối với quy định trong các nghị định và thông tư.
Tại hội thảo, các đại biểu tập trung thảo luận, chia sẻ về các vấn đề xã hội hóa quản lý chất thải rắn sinh hoạt; đề xuất các bộ, ngành có liên quan nghiên cứu ban hành phương pháp, quy trình xác định quản lý chi phí dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt để các địa phương xây dựng, điều chỉnh đơn giá nhanh chóng, thuận tiện; quy định cụ thể về mức thu, tỷ lệ hỗ trợ, bù đắp từ ngân sách địa phương thống nhất trên cả nước với từng loại đô thị.
Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng cần có chế tài với những đối tượng không phân loại rác tại nguồn, không nộp tiền dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt. Trong cơ cấu giá chi phí dịch vụ cần có tỷ lệ phần trăm thích hợp để bồi dưỡng cho lực lượng trực tiếp thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt. Đồng thời, các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động, giảm lao động nặng nhọc cho công nhân...
Theo báo cáo tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, phần lớn dân số Việt Nam vẫn tập trung sống và sản xuất ở khu vực nông thôn với khoảng 63 triệu người, chiếm 65,6% dân số cả nước. Theo Báo cáo Hiện trạng môi trường quốc gia năm 2019 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh trên cả nước năm 2019 là 65.658 tấn/ngày (trong đó khu vực đô thị là 35,625 tấn/ngày và khu vực nông thôn là 28.392 tấn/ngày tương đương với 10,4 triệu tấn/năm).