Việc ban hành Luật Đo đạc và Bản đồ là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, làm cơ sở pháp lý để thống nhất quản lý nhà nước về hoạt động đo đạc và bản đồ trong phạm vi cả nước, thúc đẩy ngành đo đạc và bản đồ phát triển trong thời gian tới.
60 năm hình thành và phát triển
Hoạt động đo đạc và bản đồ là hoạt động điều tra cơ bản, đặc biệt quan trọng, làm nền tảng để triển khai các nghiên cứu khoa học về trái đất, cung cấp thông tin, dữ liệu, sản phẩm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh cũng như phục vụ công tác quy hoạch, quản lý lãnh thổ, giám sát tài nguyên, môi trường và phòng chống thiên tai và cứu hộ cứu nạn.
Đồng thời hoạt động đo đạc và bản đồ còn góp phần bảo vệ và khẳng định chủ quyền lãnh thổ quốc gia, góp phần nâng cao dân trí. Các sản phẩm đo đạc, bản đồ và dữ liệu thông tin địa lý được sử dụng rộng rãi trong hoạt động hàng ngày của đời sống xã hội.
Công tác đo đạc và bản đồ ở Việt Nam có truyền thống lịch sử lâu đời. Từ thời Hồng Đức, vua Lê Thánh Tông đã cho thành lập bản đồ cả nước phục vụ quản lý lãnh thổ.
Ngay sau khi thành lập nước tháng 9 năm 1945, cơ quan bản đồ đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập để thực hiện các nhiệm vụ địa hình quân sự phục vụ tác chiến, bảo đảm thắng lợi trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ.
Ngày 14/12 năm 1959, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký Nghị định số 444/TTg thành lập Cục Đo đạc và Bản đồ để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đo đạc và bản đồ, từ đó, ngày 14 tháng 12 được lấy là ngày truyền thống của ngành.
Gần 60 năm qua, ngành đo đạc và bản đồ Việt Nam ngày càng phát triển, có nhiều đóng góp to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đã hoàn thành nhiều công trình đo đạc và bản đồ cơ bản quan trọng phục vụ phát triển đất nước như hệ tọa độ quốc gia, hệ độ cao quốc gia, hệ trọng lực quốc gia, các mạng lưới đo đạc quốc gia, hệ thống cơ sở dữ liệu nền địa lý quốc gia, hệ thống bản đồ địa hình quốc gia, hệ thống bản đồ địa chính phục vụ quản lý đất đai...
Từ những năm 90 của thế kỷ trước cùng với sự đổi mới của đất nước, công tác đo đạc và bản đồ đã bắt đầu thực hiện quá trình đổi mới mạnh mẽ công nghệ thu nhận và xử lý dữ liệu với việc ứng dụng công nghệ định vị vệ tinh GNSS (hệ thống vệ tinh định vị toàn cầu), công nghệ đo vẽ bản đồ số, công nghệ thu nhận và xử lý ảnh viễn thám để thành lập hệ thống bản đồ địa hình quốc gia phủ trùm cả nước, từng bước đáp ứng nhiệm vụ quản lý của các bộ, ngành, địa phương và nhu cầu của xã hội.
Những tồn tại cần khắc phục
Tuy nhiên, qua tổng kết thực tiễn, công tác quản lý nhà nước và tổ chức triển khai hoạt động đo đạc và bản đồ trong thời gian vừa qua còn nhiều tồn tại cần khắc phục. Cục trưởng Cục Đo đạc, Bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam Phan Đức Hiếu cho biết: Trước đây, công tác quản lý và triển khai hoạt động đo đạc và bản đồ còn thiếu sự thống nhất, đồng bộ.
Văn bản có tính pháp lý cao nhất quy định về hoạt động đo đạc và bản đồ là Nghị định số 45 năm 2015 của Chính phủ (thay thế cho Nghị định số 12 năm 2002 trước đây) mà nội dung chưa bao quát hết các hoạt động đo đạc và bản đồ cần quản lý, không đủ tính pháp lý để điều chỉnh các hoạt động đo đạc và bản đồ chuyên ngành được quy định rải rác trong các luật đã ban hành.
Bên cạnh đó, hoạt động đo đạc và bản đồ còn chồng chéo, lãng phí. Trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương trong quản lý và tổ chức triển khai các hoạt động đo đạc và bản đồ chưa rõ ràng, chưa có sự phối hợp thống nhất, dẫn đến trên cùng một khu vực còn xảy ra hiện tượng đo đạc chồng chéo, lãng phí thời gian, kinh phí.
Một trong những tồn tại còn gây lúng túng trong quản lý hoạt động đo đạc bản đồ, theo tiến sỹ Phan Đức Hiếu, là việc phân cấp giữa Trung ương và địa phương chưa phù hợp. Theo quy định hiện hành, hầu hết các nhiệm vụ đo đạc và bản đồ cơ bản thuộc trách nhiệm tổ chức triển khai của cơ quan quản lý nhà nước về đo đạc và bản đồ tại Trung ương.
Do đó, xảy ra tình trạng khi cần các dữ liệu đo đạc và bản đồ phục vụ cho quản lý, quy hoạch, phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, đặc biệt là tại các đô thị có sự phát triển nhanh chóng thì Trung ương không đáp ứng kịp thời.
Trong khi đó, nhiều địa phương hoàn toàn có đủ năng lực quản lý cũng như nguồn lực để đầu tư, tổ chức triển khai. Điều đó cho thấy chính sách quản lý tập trung, bao cấp đã không phát huy được tiềm năng, nguồn lực, tính chủ động của địa phương trong tổ chức triển khai các hoạt động đo đạc và bản đồ.
Trước đây, các công trình hạ tầng đo đạc cơ bản là tài sản quốc gia, gắn liền với hệ thống tọa độ, độ cao, trọng lực quốc gia, có vai trò hết sức quan trọng, là nền tảng để triển khai thực hiện các hoạt động đo đạc và bản đồ thống nhất trên toàn quốc.
Tuy nhiên, chính sách phát triển, quản lý công trình hạ tầng đo đạc hiện nay chưa rõ về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; hạ tầng đo đạc chưa đồng bộ, thống nhất và kết nối do vậy chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển hiện nay.
Một bất cập khác còn tồn tại cần khắc phục là các thông tin, dữ liệu, sản phẩm, đo đạc và bản đồ hiện nay được lưu giữ phân tán ở nhiều nơi, chưa có hệ thống quy chuẩn kỹ thuật thống nhất, chưa được tích hợp liên thông để chia sẻ, dùng chung; việc khai thác, tiếp cận thông tin, dữ liệu của các tổ chức, người dân đối với một số loại thông tin, dữ liệu còn khó khăn.
Quy định mức độ mật đối với một số loại thông tin, dữ liệu, sản phẩm đo đạc và bản đồ chưa hợp lý, làm hạn chế việc sử dụng. Điều đó dẫn đến việc quản lý, cung cấp thông tin, dữ liệu, sản phẩm đo đạc và bản đồ còn bất cập.
Đặc biệt, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin trong giai đoạn hiện nay với tốc độ đột phá của cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi yêu cầu cao đối với thông tin, dữ liệu, sản phẩm đo đạc và bản đồ về độ chính xác, độ tin cậy và tính kịp thời.
Bản đồ điện tử phát triển rất mạnh mẽ, được truyền bá, đăng tải trên internet hoặc xuất bản bán ra thị trường nhưng Nhà nước chưa xây dựng được chính sách quản lý hữu hiệu đối với dạng sản phẩm này, đặc biệt đối với các ấn phẩm mang tính nhạy cảm, liên quan đến chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
Việc thương mại hóa thông tin, dữ liệu, sản phẩm đo đạc và bản đồ vẫn diễn ra trên thực tế và ngày càng phát triển, trong khi Nhà nước chưa có chính sách để quản lý hữu hiệu.
Một trong những yếu tố quan trọng để thúc đẩy và nâng cao hiệu quả thực tiễn của các hoạt động đo đạc bản đồ là chính sách xã hội hoá trước khi có Luật vẫn chưa có cơ chế rõ ràng. Trao đổi về vấn đề này, Trưởng phòng Chính sách Cục Đo đạc, Bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam Nguyễn Văn Thảo cho biết: Thời gian trước đây, Nhà nước đã có chính sách xã hội hóa các hoạt động đo đạc và bản đồ nhưng chưa có cơ chế rõ ràng để thúc đẩy phát triển. Các quy định về bảo mật trong bối cảnh khoa học và công nghệ hiện nay cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới hạn chế trong việc xã hội hóa.
Việc quản lý cá nhân hành nghề đo đạc và bản đồ độc lập chưa được triển khai, để đảm bảo cá nhân hành nghề độc lập được pháp luật công nhận và bảo vệ, mặc dù đây là yêu cầu và điều kiện cần thiết đối với hoạt động đo đạc và bản đồ trong hội nhập khu vực và quốc tế và thực hiện cam kết của Chính phủ Việt Nam về Thoả thuận khung ASEAN thừa nhận lẫn nhau về trình độ đo đạc năm 2007. Do đó, Luật đã xây dựng những nội dung cụ thể đối với chính sách xã hội hoá trong lĩnh vực đo đạc bản đồ.
"Những hạn chế trên đây do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nguyên nhân quan trọng nhất là chưa có sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật về đo đạc và bản đồ", ông Thảo cho biết.
Trong bối cảnh đó, việc xây dựng một đạo luật để quản lý thống nhất, có hiệu quả hoạt động đo đạc và bản đồ, thúc đẩy phát triển hạ tầng dữ liệu không gian địa lý quốc gia (NSDI) là yêu cầu cấp bách và xuất phát từ thực tiễn khách quan.
Bài cuối-Nhiều quy định mang tính 'đột phá'