Tại buổi làm việc, Thứ trưởng Lê Quốc Doanh và đại diện Hiệp hội hai ngành hàng này đều có chung nhận định, mặc dù cà phê và tiêu là những cây trồng chủ lực đem lại giá trị xuất khẩu tỷ đô, nhưng mối liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân trong sản xuất, chế biến chưa thực sự gắn kết thành chuỗi nhằm tạo ra giá trị kinh tế, sức cạnh tranh cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu.
Phơi cà phê trước khi đưa vào chế biến. Ảnh: Hồng Kỳ/TTXVN |
Năm 2016 xuất khẩu cà phê nhân của Việt Nam đứng thứ 2 thế giới với sản
lượng 1,78 triệu tấn (đạt 3,34 tỷ USD), tăng 32,8% về lượng và 25% về
giá trị. Nhưng giá trị xuất khẩu cà phê còn thấp, do chủ yếu xuất khẩu ở
dạng nguyên liệu thô.
Theo Cục Trồng trọt, tỷ lệ cà phê chế
biến sâu vẫn còn ít, chiếm chưa đến 10% sản lượng cà phê cả nước. Và nếu
bổ sung 32.000 tấn cà phê chế biến của Nhà máy cà phê hòa tan Tín Nghĩa
trong năm 2017 thì theo ông Nguyễn Viết Vinh, Tổng thư ký Hiệp hội Cà
phê Ca cao Việt Nam, tỷ lệ cà phê chế biến sâu của Việt Nam là 12%. Đây
là con số rất khiêm tốn.
Thứ trưởng Lê Quốc Doanh đặt vấn đề:
“Chế biến lãi nhiều sao doanh nghiệp ít đầu tư?” Giải đáp về vấn đề này,
ông Nguyễn Viết Vinh cho rằng, đầu tư một nhà máy chế biến cần lượng
vốn lớn, nhưng việc tiêu thụ cà phê ở trong nước ít và chịu áp lực cạnh
tranh rất lớn của các doanh nghiệp FDI.
Về thị trường, hiện
doanh nghiệp chủ yếu mới xuất khẩu được sang tỉnh Vân Nam (Trung Quốc),
còn xuất sang Lào, Campuchia số lượng không đáng kể. Trong khi đó, tại
Brazil, họ tiêu dùng trong nước tới 43%, Indonesia tiêu dùng 34 - 35%...
Nói về chuỗi giá trị, ông Vinh cho hay: “Liên kết giữa doanh
nghiệp với nông dân hiện có vấn đề. Trong khi phần lớn người nông dân
tham gia vào chuỗi cà phê, nhưng 1ha của họ chỉ được 3-5 tấn, thì bán
lượng đó với giá trị gia tăng không đáng kể. Trong khi đó, thương lái,
trung gian thu lợi rất cao. Bây giờ để xử lý chuỗi giá trị gia tăng này
thì phải liên kết giữa doanh nghiệp với nông dân”.
Cũng theo ông
Vinh, mua bán cà phê qua thương lái có rất nhiều rủi ro về chất lượng.
Vấn đề này đã được các doanh nghiệp trong Hiệp hội họp bàn nhiều, nhưng
họ đều phản ánh “không làm thế nào để thoát ra khỏi thương lái, trung
gian, các đại lý được”.
Một nhược điểm nữa là mặc dù đã có tiêu chuẩn về
cà phê xuất khẩu, nhưng hiện các doanh nghiệp chỉ bán theo “thỏa thuận”
về độ ẩm, hạt vỡ, tạo chất bao nhiêu % là chính, số tuân thủ theo tiêu
chuẩn vấn còn thấp. Điều này khiến cà phê của Việt Nam bị trả giá thấp.
Trong
khi đó, theo Cục Trồng trọt, trên 80% sản lượng cà phê được sơ chế bằng
phương pháp chế biến khô tại hộ gia đình khiến chất lượng cà phê sơ chế
tại nông hộ còn thấp. Đối với chế biến cà phê bột, các cơ sở chế biến
có quy mô nhỏ với máy móc thiết bị chế tạo trong nước, chưa đảm bảo điều
kiện an toàn thực phẩm và chất lượng sản phẩm. Việc pha trộn nguyên
liệu thay thế chưa được kiểm soát dẫn đến chất lượng cà phê bột còn hạn
chế.
Tương tự, mặt hàng hồ tiêu của Việt Nam cũng chủ yếu xuất
khẩu sản phẩm thô, chưa chuyển sang các sản phẩm được chế biến với chất
lượng cao để xuất khẩu. Hiện nay, ngành hồ tiêu đang phải đối mặt với
tình trạng phát triển nóng, do tăng nhanh diện tích trồng hồ tiêu trong
những năm qua (hiện diện tích trồng hồ tiêu cả nước vào khoảng
125.000 ha), qua đó phát sinh rủi ro về giá (giá bán hồ tiêu giảm gần một
nửa, hiện ở mức 110.000 đồng/kg) và tình hình dịch bệnh đang gây hại ở
các địa phương.
Thứ trưởng Lê Quốc Doanh đánh giá, mặc dù hồ
tiêu là cây tỷ đô, nhưng còn hạn chế ở các khâu: Giống, phòng trừ dịch
bệnh, ứng dụng khoa học kỹ thuật... Bên cạnh đó, thời gian qua do giá
tiêu tăng cao nên nông dân gia tăng mạnh diện tích trồng tiêu và chăm
bón nhiều dẫn đến hiện tượng đất chai cứng và dịch bệnh phát sinh. Đây
là những nhân tố khiến việc phát triển ngành tiêu kém bền vững, chất
lượng hồ tiêu chưa đạt như mong muốn.