Xuất khẩu dần phục hồi
Theo đại diện Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cơ bản giữ được đà tăng và sau 6 tháng, ước đạt 164,45 tỷ USD, giảm 12,1% so với cùng kỳ năm 2022.
Trong 6 tháng đầu năm, có 27 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 90,1% tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong đó xuất khẩu rau quả và gạo là điểm sáng của cả nước trong 6 tháng đầu năm khi đạt mức tăng 2 con số. Theo đó, kim ngạch xuất khẩu gạo tăng 34,7%, xuất khẩu rau quả tăng 64,2% so với cùng kỳ năm 2022.
Ông Trần Duy Đông, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết, nguyên nhân khiến xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2023 giảm mạnh là do từ quý III/2022, lạm phát tăng cao, thậm chỉ đạt đỉnh lịch sử nhiều năm tại các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như Hoa Kỳ, EU... Bước sang năm 2023, mặc dù đã thực hiện các biện pháp ứng phó với lạm phát, tuy nhiên lạm phát vẫn ở mức cao và nền kinh tế của các quốc gia vẫn đứng trước nguy cơ suy giảm kinh tế.
“Có thể thấy các doanh nghiệp xuất khẩu hiện nay đang đối mặt với khó khăn chồng khó khăn, trong đó việc không có đơn hàng dẫn tới phải cắt giảm công suất, thậm chí là dừng sản xuất”, ông Trần Duy Đông chia sẻ.
Theo ông Trần Duy Đông, cùng với việc giảm tổng cầu và tăng cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu có cùng cơ cấu hàng xuất khẩu thì chi phí đầu vào vẫn ở mức cao trong khi giá hàng xuất khẩu không tăng, thậm chí giảm gây khó khăn cho doanh nghiệp.
Đặc biệt, một số ngành hàng chủ lực như thủy sản, gỗ và sản phẩm gỗ, sắt thép, sản phẩm nhựa bị gia tăng các biện pháp phòng vệ thương mại ở các nước xuất khẩu. Trong khi đó, các nước nhập khẩu đặt ra yêu cầu về phát triển bền vững, sản xuất thân thiện với môi trường nên trong bối cảnh đơn hàng dệt may, da giày sụt giảm các khách hàng ưu tiên đặt hàng từ các nước sản xuất đã đầu tư phát triển sản xuất xanh và bền vững.
Cùng với đó, mặc dù đã có nhiều cải thiện trong thời gian qua, tuy nhiên chất lượng sản phẩm của ta, đặc biệt là hàng nông sản còn thiếu ổn định, chưa đồng đều, doanh nghiệp chậm đổi mới quản trị, ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi sang xuất khẩu chính ngạch.
Theo ông Trần Duy Đông, hiện hoạt động xuất khẩu đang lấy lại được đà phục hồi và tăng trưởng. Thăng dự thương mại lớn (12,2 tỷ USD) đã góp phần cải thiện cán cân thanh toán, cải thiện dự trữ ngoại hồi, tạo dư địa lớn trong điều hành chính sách tiền tệ. Xuất khẩu hàng công nghiệp giảm mạnh trong khi hàng nông sản tăng trưởng khá tốt đặc biệt là một hàng rau quả, gạo và hạt điều.
Ở góc độ địa phương, bà Trần Thị Phương Lan, Quyền Giám đốc Sở Công Thương Hà Nội chia sẻ, trong 6 tháng đầu năm, tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn là 220.121 tỷ đồng, đạt 62,4% dự toán, bằng 122,9% so với cùng kỳ. Tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) được duy trì, tuy nhiên mức tăng thấp hơn cùng kỳ và thấp hơn kịch bản đầu năm. GRDP 6 tháng đầu năm 2023 tăng 5,97% - là mức tăng khá trong bối cảnh kinh tế bị ảnh hưởng kép từ sự mất cân đối cung – cầu và tác động chính sách thắt chặt tiền tệ của các quốc gia.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng và vận tải hàng hóa tăng khá, tuy nhiên mức tăng thấp hơn cùng kỳ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 10,4% (cùng kỳ tăng 13,6%); khối lượng hàng hóa vận chuyển tăng 20,8% (cùng kỳ tăng 30,8%). Thu hút vốn FDI 6 tháng đầu năm đạt 2.265 triệu USD, dẫn đầu cả nước và vượt kết quả năm 2022.
Ông Bùi Văn Kháng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh thông tin, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) ước 6 tháng đầu năm 2023 tăng 9,46%. Hoạt động thông quan hàng hóa và vận tải hành khách tại các cửa khẩu biên giới được nối lại, đã thúc đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc. Theo đó, kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp trong tỉnh 6 tháng đầu năm ước đạt 1,439 tỷ USD, tăng 12,69% so với cùng kỳ (kim ngạch xuất khẩu của cả nước giảm 12,1% so với cùng kỳ). Hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh vẫn duy trì tăng trưởng so với cùng kỳ. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 16,64%, cao hơn 0,17 điểm % so với cùng kỳ; hạ tầng thương thương mại được quan tâm thu hút đầu tư, nguồn hàng hoá thiết yếu được đảm bảo.
Thúc đẩy tăng trưởng cuối năm
Để lấy lại đà tăng trưởng trong xuất khẩu, ông Trần Duy Đông cho biết, thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Theo đó, hỗ trợ sản xuất, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về xuất nhập khẩu; kiến nghị thêm chính sách về tài khóa và tiền tệ để hỗ trợ doanh nghiệp gia tăng nguồn cung, tiết giảm chi phí và tạo ra nhiều sản phẩm cạnh tranh hơn.
Bộ và Cục Xuất nhập khẩu sẽ chủ trì triển khai đồng bộ các chương trình trong Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đến năm 2030 và Chiến lược phát triển các mặt hàng chủ lực của ta trong đó Chiến lược xuất khẩu mặt hàng gạo. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin thị trường, xúc tiến thương mại. Tận dụng hiệu quả cơ hội từ các Hiệp định thương mại, trong đó tập trung vào việc sớm hoàn tất các thủ tục để tiến hành ký kết Hiệp định FTA với Israel; đẩy nhanh đàm phán ký kết hiệp định thương mại với các thị trường còn là tiềm năng (UAE, Mercosur,…) hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng các cam kết trong các Hiệp định CPTPP, EVFTA, UKVFTA để đẩy mạnh xuất khẩu và tăng cường tuyên truyền về quy tắc xuất xứ và cấp Giấy chứng nhận xuất xứ, tự chứng nhận xuất xứ cho các Sở Công Thương, các Hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp xuất khẩu.
Bộ Công Thương cũng phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đàm phán với các nước, nhất là Trung Quốc mở cửa thêm thị trường xuất khẩu cho các mặt hàng rau quả khác của Việt Nam như bưởi da xanh, dừa tươi, bơ, dứa, vú sữa, chanh, dưa lưới...
Để hỗ trợ doanh nghiệp, Bộ thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, trong đó, tập trung vào việc tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính trong cấp Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O), cho phép doanh nghiệp tự in C/O từ hệ thống eCoSys của Bộ Công Thương và đẩy mạnh việc khai báo, nộp hồ sơ C/O điện tử mẫu AK và VK điện tử sang thị trường Hàn Quốc.
Bộ cũng sẽ tiếp tục thực hiện các giải pháp để phát triển dịch vụ logistics, tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại; Nâng cao tốc độ thông quan xuất nhập khẩu tại khu vực cửa khẩu thuộc biên giới giữa Việt Nam - Trung Quốc, đặc biệt là đối với các mặt hàng nông sản, thủy sản có tính chất thời vụ; có giải pháp chuyển nhanh, chuyển mạnh sang xuất khẩu chính ngạch.