Trên 20.000 ha lúa nguy cơ bị xâm nhập mặn do không theo khuyến cao
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) từ đầu mùa khô tính đến 26/3/2024 ở mức cao hơn trung bình nhiều năm và cùng kỳ năm 2023, nhưng không nghiêm trọng như các năm xâm nhập mặn lịch sử 2015-2016, 2019-2020.
Thời điểm xâm nhập mặn bắt đầu xuất hiện từ cuối tháng 12/2023 (ngày 24-27/12/2023), sớm hơn trung bình nhiều năm khoảng 1 tháng nhưng muộn hơn năm 2015, 2019 khoảng 20 ngày.
Chiều sâu xâm nhập mặn lớn nhất của ranh mặn 4 g/l từ đầu mùa khô ở vùng các cửa sông Cửu Long đã xuất hiện từ ngày 10-13/3/2024 từ 55-65 km, so với trung bình nhiều năm cao hơn từ 6-16 km, so với năm 2016 thấp hơn từ 5-8 km (riêng sông Cửa Tiểu- Đại đã xuất hiện cao hơn năm 2016 khoảng 4-5 km), thấp hơn năm 2020 từ 7- 36 km.
Ở vùng hai sông Vàm Cỏ, ranh mặn 4 g/l vào sâu từ 78-80 km, so với trung bình nhiều năm thấp hơn từ 2-4 km, so với 2016 thấp hơn từ 33-43 km, thấp hơn năm 2020 từ 23-63 km, so với năm 2023 cao hơn từ 14-16km.
Ở vùng ven biển Tây, hệ thống công trình thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé đã vận hành chủ động kiểm soát xâm nhập mặn.
Nhận định xâm nhập mặn thời gian còn lại mùa khô 2023-2024, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, ở vùng các cửa sông Cửu Long, xâm nhập mặn có khả năng đã qua đỉnh điểm. Dự báo, các đợt xâm nhập mặn tới xuất hiện ở mức thấp hơn đợt nửa đầu tháng 3/2024 nhưng vẫn tương đối cao, thời gian ảnh hưởng kéo dài đến hết tháng 4/2024. Các đợt xâm nhập mặn cao dự kiến xuất hiện vào các ngày 7-11/4, 22-25/4/2024.
Ở vùng hai sông Vàm Cỏ, xâm nhập mặn tiếp tục tăng, có khả năng đạt đỉnh điểm trong tháng 4 và tiếp tục duy trì ở mức cao đến tháng 5/2024. Thời gian các đợt xâm nhập mặn cao vào các ngày 7-10/4, 22-25/4, 6-10/5.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nhìn chung, diễn biến thực tế xâm nhập mặn phù hợp với thông tin nhận định đã được các cơ quan thuộc Bộ cung cấp từ tháng 9/2023.
“Trong thời gian còn lại của mùa khô, trường hợp các hồ chứa phía thượng lưu vận hành giảm xả bất thường thì xâm nhập mặn có thể tăng cao hơn dự báo”, báo cáo nêu ra.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, theo khoanh vùng nguy cơ ảnh hưởng ban đầu (tháng 9/2023), tổng cộng có khoảng 56.260 ha lúa vụ Đông Xuân và 43.300 ha cây ăn trái. Diện tích này đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo khuyến cáo thuộc vùng nguy cơ ảnh hưởng của xâm nhập mặn. Với các giải pháp đã được triển khai, toàn bộ diện tích lúa trong vùng được khuyến cáo đã được đẩy sớm thời vụ, hiện đã được thu hoạch hoặc trong giai đoạn chín (cắt nước), bảo đảm không bị thiệt hại, các vùng cây ăn trái vẫn được bảo đảm an toàn.
Hiện có khoảng 20.510 ha lúa (Tiền Giang 30 ha, Bến Tre 730 ha, Trà Vinh 13.000 ha, Sóc Trăng 6.030 ha, Long An 720 ha) có nguy cơ bị ảnh hưởng của hạn hán, xâm nhập mặn. Đây là các diện tích được người dân xuống giống muộn, không theo khuyến cáo (sau ngày 31/12/2023); trong đó, đã có 621 ha lúa thuộc tỉnh Sóc Trăng đã bị thiệt hại.
Về nước sinh hoạt, có khoảng 50.500 hộ dân (chiếm 3,6% tổng hộ dân) bị thiếu nước sinh hoạt (Bến Tre 12.000 hộ, Kiên Giang 20.000 hộ, Sóc Trăng 6.400 hộ, Bạc Liêu 4.900 hộ, Cà Mau 3.900 hộ, Long An 3.300 hộ).
Đây là các khu vực dân cư thuộc vùng nguồn nước dưới đất bị suy giảm, nguồn nước mặt tại một số công trình cấp nước tập trung có độ mặn vượt ngưỡng cho phép hoặc các hộ dân chưa được cấp nước từ công trình cấp tập trung và thiếu dụng cụ trữ đủ nước ngọt để sử dụng.
Địa phương đã triển khai đồng bộ các giải pháp cấp nước sinh hoạt cho các hộ bị ảnh hưởng, như hỗ trợ các thiết bị, dụng cụ trữ nước, thiết lập các điểm cấp nước công cộng; cấp nước luân phiên, đấu nối hòa mạng giữa các trạm cấp nước, mở rộng tuyến ống, khoan bổ sung giếng khai thác, sử dụng thiết bị lọc mặn, quan trắc độ mặn để vận hành công trình hợp lý.
Đến nay, số lượng hộ dân bị ảnh hưởng thấp hơn nhiều so với năm 2019-2020 (chỉ bằng khoảng 50%) và mức độ ảnh hưởng đến các hộ cũng ở mức thấp, thời gian ảnh hưởng ngắn chỉ diễn ra vài ngày cao điểm giữa tháng 3/2024 do các hộ đã chủ động tăng thiết bị trữ nước kết hợp với sử dụng nước tiết kiệm.
Dự án đầu tư xây dựng cống âu Nguyễn Tấn Thành được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thi công 3 tháng, đưa vào vận hành và khai thác sớm góp phần hỗ trợ ngăn mặn, trữ ngọt, bảo vệ sản xuất nông nghiệp cho vùng diện tích khoảng 12.580 ha và tạo nguồn nước thô cho các nhà máy cấp nước sinh hoạt phục vụ cho khoảng 800.000 người dân của tỉnh Tiền Giang.
Khoảng 2-3% diện tích canh tác ở Trung Bộ sẽ thiếu nước
Tại khu vực Trung Bộ, hiện đã có khoảng 2.400 ha lúa và cây ăn quả, chiếm dưới 1% diện tích canh tác, ở các tỉnh Quảng Nam (1.500 ha lúa) và Bình Thuận (909 ha thanh long) bị hạn hán, thiếu nước.
Nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, dân sinh khu vực này phụ thuộc chính vào lượng nước trữ của các hồ chứa thủy lợi và lượng nước bổ sung cho hạ du từ các hồ chứa thủy điện.
Hiện tại, các hồ chứa thủy lợi trong khu vực có dung tích trữ phố biến từ 60-70% dung tích thiết kế, ở mức xấp xỉ so với trung bình nhiều năm; dung tích trữ hữu ích tại các hồ chứa thủy điện ở các lưu vực sông thường xuyên tham gia cấp nước cho hạ du phổ biến từ 60-90% dung tích thiết kế, cao hơn so với cùng kỳ trung bình nhiều năm khoảng 10%.
Tuy nhiên, có 14 hồ chứa nhỏ mực nước thấp hơn mực nước chết. Cụ thể, Quảng Nam có 4 hồ do đang sửa chữa nâng cấp không tích nước, Bình Định 5 hồ, Ninh Thuận 3 hồ và Bình Thuận 2 hồ.
Dự báo, do mùa khô còn kéo dài đến hết tháng 7, 8/2024 nên khu vực tiếp tục có nguy cơ bị ảnh hưởng của hạn hán, thiếu nước trong thời gian tới, đặc biệt nếu nắng nóng xảy ra gay gắt, lượng nước trữ trong các hồ chứa giảm nhanh.
Qua cân đối nguồn nước, diện tích nguy cơ bị ảnh hưởng ở vụ Đông Xuân 2023-2024 khoảng 3.700 - 5.700 ha cây trồng, chiếm khoảng dưới 1% diện tích canh tác. Cụ thể, Nghệ An từ 1.000-1.500 ha, Quảng Nam từ 1.700 - 2.500 ha, Phú Yên từ 500 - 700 ha, Bình Thuận từ 500 - 1.000 ha.
Trong vụ Hè Thu 2024, vùng nguy cơ bị ảnh hưởng khoảng từ 15.500 -21.000 ha cây trồng, chiếm khoảng từ 2-3% diện tích canh tác; gồm Bắc Trung Bộ từ 7.500 - 11.000 ha, Nam Trung Bộ từ 8.000 - 10.000 ha.
Tại khu vực Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, khu vực này có diện tích cây trồng (chủ yếu là cây trồng lâu năm) năm ngoài vùng phụ trách tưới chủ động của các công trình thủy lợi tương đối lớn (chiếm trên 70% diện tích canh tác). Do vậy, tình trạng hạn hán, thiếu nước phụ thuộc lớn vào tình hình mưa trong mùa khô.
Hiện các hồ chứa thủy lợi trữ phố biến từ 50-70% dung tích thiết kế, tương đương và thấp hơn 5% so với trung bình nhiều năm. Toàn vùng hiện tại có 58 hồ chứa nhỏ mực nước xuống dưới mực nước chết. Các hồ chứa thủy điện thường xuyên tham gia điều tiết nước phục vụ thủy lợi hiện có dung tích trữ phổ biến từ 40-70% dung tích thiết kế, riêng hồ Ialy chỉ đạt 26%, thấp hơn so với trung bình nhiều năm là 28%; hồ Sê San 3 chỉ đạt 4%, thấp hơn so với trung bình nhiều năm là 14%.
Do lượng mưa từ đầu mùa khô thiếu hụt, hiện đang có khoảng 9.860 ha/2.308.000 ha diện tích cây trồng (chủ yếu là cây lâu năm) bị ảnh hưởng của hạn hán, thiếu nước (Gia Lai 101 ha, Đắk Lắk 63 ha, Lâm Đồng 1.830 ha, Bình Phước 7.866 ha); trong đó, đã có 66 ha lúa và hoa màu thuộc tỉnh Gia Lai bị mất trắng.
Các diện tích bị mất trắng thuộc vùng sản xuất nằm ngoài vùng các công trình thủy lợi phục vụ tưới.
Mùa khô trong khu vực kéo dài đến hết tháng 4/2024. Dự báo, cuối mùa khô, tình trạng hạn hán, thiếu nước nguy cơ tiếp tục xảy ra tại một số công trình hồ chứa nhỏ, đập dâng và vùng ngoài công trình thủy lợi phụ trách tưới với tổng diện tích bị ảnh hưởng khoảng 23.000 – 37.000 ha (Tây Nguyên 15.000 - 26.000, Đông Nam Bộ 8.000-11.000 ha), chiếm khoảng từ 1-2% diện tích gieo trồng.
Tiếp tục ứng phó với đồng bộ các giải pháp
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, Bộ tiếp tục tăng cường theo dõi sát diễn biến tình hình thời tiết, thủy văn; tiếp tục thực hiện việc dự báo chuyên ngành về nguồn nước, xâm nhập mặn và xây dựng kế hoạch sử dụng nước ở các vùng/lưu vực sông để làm cơ sở tổ chức các giải pháp ứng phó phù hợp.
Ngành tiếp tục tăng cường việc vận hành các công trình thuỷ lợi để lấy, tích trữ nước ngọt tối đa vào hệ thống kênh mương, ao đầm, khu trũng phục vụ sản xuất, dân sinh; tại các vùng cây ăn trái tiếp tục thực hiện trữ nước trong các ao, hồ phân tán, bảo đảm đủ nguồn nước cung cấp để duy trì sức sống tối thiểu của cây trồng trong thời gian ảnh hưởng của xâm nhập mặn.
Đồng thời, khuyến cáo người dân tuân thủ khuyến cáo của ngành trồng trọt tuyệt đối không xuống giống lúa ở các vùng đang tiếp tục có nguy cơ bị ảnh hưởng của xâm nhập mặn, chỉ tổ chức xuống giống khi có xuất hiện mưa, nguồn nước bảo đảm cung cấp ổn định.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, chỉ đạo Bộ Công Thương, Tập đoàn Điện lực Việt Nam phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức tăng cường vận hành phát điện linh hoạt các hồ chứa thủy điện ở thượng nguồn sông Hồng – Thái Bình và khu vực Trung Bộ để bổ sung nước cho hạ du phục vụ tưới dưỡng lúa Đông Xuân và sản xuất vụ Hè Thu, bảo đảm phù hợp với nhu cầu sử dụng nước và tiết kiệm nước từ các hồ chứa thủy điện.
Thủ tướng Chính phủ xem xét giao Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổng hợp nhu cầu hỗ trợ kinh phí phòng, chống, khắc phục hậu quả hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn của các địa phương, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định theo quy định tại Quyết định số 305/QĐ-TTg ngày 05/3/2021 quy định về phạm vi, đối tượng, nội dung chi và cơ chế hỗ trợ từ ngân sách Trung ương cho địa phương thực hiện phòng, chống, khắc phục hậu quả hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề xuất ưu tiên bố trí nguồn vốn đầu tư xây dựng công trình thủy lợi có nhiệm vụ nâng cao năng lực phòng, chống hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn đã được xác định danh mục tại Quy hoạch phòng, chống thiên tai và thủy lợi thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định số 847/QĐ-TTg ngày 14/7/2023 củaThủ tướng Chính phủ) và các quy hoạch liên quan khác.