Các học viên thực hành lập trình và vận hành Robot tại Trung tâm Đào tạo khu công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh minh họa: TTXVN phát
Tại họp báo thường kỳ Bộ Khoa học và Công nghệ tháng 7/2025 diễn ra chiều 5/8, ông Mai Ánh Hồng, Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ cho biết, Bộ đang tích cực triển khai Chiến lược thu hút nhân tài đến năm 2030, tầm nhìn 2050.
Khung pháp lý tạo bước đột phá thu hút nhân tài, nhân lực chất lượng cao
Việc Quốc hội thông qua Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo đã tạo nền tảng vững chắc và mang tính đột phá để thu hút nhân tài và thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Luật được xây dựng bám sát các quan điểm chỉ đạo tại Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia (Nghị quyết 57) tạo hành lang pháp lý thông thoáng, công nhận, trao quyền cho nhà khoa học về sở hữu trí tuệ, tài chính và quyền khai thác thương mại. Luật cũng thiết lập chính sách đãi ngộ tài chính và phi tài chính hấp dẫn hơn cho nhân tài, nhân lực chất lượng cao về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; cho phép cơ chế đãi ngộ linh hoạt, kể cả cơ chế vượt khung lương, nhằm thu hút, giữ chân và phát huy nhân tài, đặc biệt là chuyên gia người Việt ở nước ngoài.
Bên cạnh đó Quốc hội đã thông qua Luật Công nghiệp Công nghệ số năm 2025 với mục tiêu cụ thể hóa các chính sách phát triển công nghiệp công nghệ số trở thành ngành kinh tế trụ cột, đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút và phát triển nhân tài công nghệ. Luật có chính sách ưu đãi vượt trội để phát triển công nghiệp bán dẫn, hình thành hệ sinh thái bán dẫn Việt Nam; đồng thời, đặt nền tảng pháp lý cho trí tuệ nhân tạo (AI) và tài sản số.
Theo ông Mai Ánh Hồng, dù các Luật mới đã được ban hành nhưng việc triển khai các Nghị định, Thông tư hướng dẫn chi tiết và đảm bảo tính đồng bộ với các quy định khác (Luật Ngân sách, Luật Viên chức...) là rất quan trọng. Các quy định sẽ không phát huy hiệu quả nếu trình tự, thủ tục còn rườm rà, thiếu linh hoạt.
Mặc dù có những cải thiện nhưng mức độ đãi ngộ tài chính cho nhà khoa học tại Việt Nam chưa cạnh tranh so với các quốc gia phát triển. Các yếu tố phi tài chính như môi trường nghiên cứu chuyên nghiệp, cơ sở vật chất, văn hóa làm việc, cơ hội phát triển sự nghiệp là những yếu tố quan trọng cần được cải thiện đồng bộ.
Bên cạnh đó, cơ chế đãi ngộ linh hoạt, vượt khung nhưng còn mang tính nguyên tắc. Các Luật mới mở ra cơ chế "vượt khung" nhưng mức độ cụ thể và phạm vi áp dụng của cơ chế này trong thực tiễn cần được quy định rõ trong các văn bản hướng dẫn triển khai, thực hiện Luật.
Cơ chế, chính sách của Bộ Khoa học và Công nghệ để thu hút nhân tài
Ông Mai Ánh Hồng khẳng định, Bộ Khoa học và Công nghệ xác định trong khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, nhân lực chất lượng cao, nhân tài là yếu tố quyết định, không thể thu hút bằng chính sách cứng nhắc. Việc vượt khung lương, cấp nhà ở, điều kiện làm việc không nên xem là "đặc ân" mà là điều kiện tối thiểu để những người có khả năng tạo đột phá yên tâm làm việc.
Để cụ thể hóa tinh thần Nghị quyết 57, Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Luật Công nghiệp Công nghệ số, Bộ tập trung xây dựng và ban hành các quy định cụ thể về cơ chế chấp nhận rủi ro; cơ chế tự chủ đối với các tổ chức khoa học và công nghệ công lập; chính sách ưu đãi vượt trội để phát triển công nghiệp bán dẫn; chính sách thu hút, sử dụng và trọng dụng đối với nhân tài, nhân lực chất lượng cao và quy định về phân chia lợi ích từ kết quả nghiên cứu.
Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng, tổ chức triển khai Đề án "Phát triển, trọng dụng nhân tài, nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia"; phát triển các chương trình quốc gia có mục tiêu cụ thể để thu hút các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài về làm việc, cũng như các chuyên gia nước ngoài có kinh nghiệm. Các chương trình này có thể bao gồm gói hỗ trợ tài chính đặc biệt, điều kiện làm việc ưu việt và cơ hội phát triển sự nghiệp rõ ràng.
Hạ tầng và môi trường nghiên cứu được Bộ Khoa học và Công nghệ đầu tư với việc nâng cấp các phòng thí nghiệm trọng điểm, trung tâm nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế, xây dựng các khu công nghệ cao, vườn ươm công nghệ. Bộ thúc đẩy liên kết giữa nghiên cứu và doanh nghiệp thông qua khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, hợp tác với các viện nghiên cứu, trường đại học để ứng dụng kết quả khoa học vào thực tiễn sản xuất, kinh doanh; phát triển thị trường cho các sản phẩm khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó, Bộ đẩy mạnh hợp tác quốc tế và chuyển giao công nghệ; tạo điều kiện cho các nhà khoa học Việt Nam tham gia vào các dự án quốc tế, các mạng lưới nghiên cứu toàn cầu, đồng thời thu hút các tập đoàn công nghệ lớn đặt trung tâm nghiên cứu và phát triển tại Việt Nam.
Các rào cản hành chính sẽ được Bộ giảm thiểu, bảo đảm quyền tự chủ tối đa cho nhà khoa học; cung cấp nguồn lực (tài chính, trang thiết bị, cơ sở dữ liệu) cho hoạt động nghiên cứu và thử nghiệm. Cùng với đó, thay vì nặng về quy trình, công tác đánh giá được Bộ thực hiện dựa trên hiệu quả và sản phẩm tập trung vào kết quả đầu ra, các công bố quốc tế, bằng sáng chế, sản phẩm thương mại hóa có giá trị.