Người chiến thắng là ai? Những sự đảo ngược bập bênh trên chiến trường mang lại nhiều câu trả lời. Ở Cairo, họ kể câu chuyện về chiến thắng anh hùng của quân đội Ai Cập. Chuyện tập trung vào những ngày đầu của cuộc chiến: đánh lừa thành công, vượt kênh Suez dưới hỏa lực tàn lụi của Israel và những thành công quân sự giúp Tập đoàn quân số 3 giữ được vị trí đầu cầu ở bờ đông kênh. Còn nửa sau của cuộc chiến - phần Israel chiến thắng, thì hòa vào bối cảnh mờ ảo.
Trong khi đó, người Israel có trong tay tất cả những sự thật cần thiết để kể một câu chuyện hấp dẫn về chiến thắng của mình. Một cuộc tấn công lén lút của kẻ thù đã bắt được con sư tử đang ngủ. Nó đã mắc một số bước sai lầm ban đầu, nhưng sau khi thức giấc, sư tử đã xé nát kẻ thù thành từng mảnh.
Chính phủ của nữ Thủ tướng Meir cố gắng đưa ra một câu chuyện như vậy khi chiến tranh kết thúc, nhưng công chúng đã thẳng thừng bác bỏ nó. Ký ức tập thể của Israel ngay lập tức coi cuộc chiến này không phải là một chiến thắng hay thất bại mà là một sai lầm to lớn. Người Israel nhớ đến Chiến tranh Yom Kippur không chỉ như một "mehdal" (thất bại), mà còn là thất bại tệ nhất. Thậm chí cụm từ “Yom Kippur” đã trở thành một từ đồng nghĩa trong tiếng Do Thái có nghĩa là “sai lầm”.
Ngày 21/11/1973, chính phủ thành lập Ủy ban Agranat để điều tra việc đưa ra quyết định sai lầm vào đầu cuộc chiến. Shimon Agranat, chủ tịch Tòa án Tối cao, chủ trì cuộc điều tra. Ủy ban đã đưa ra một phân tích có ảnh hưởng sâu sắc về "mehdal". Để giải thích điều gì đã xảy ra, họ dùng đến một thuật ngữ, mà ngày nay đã trở thành một yếu tố thường trực trong từ vựng chính trị của Israel: "konseptzia" (quan niệm).
Thuật ngữ này đề cập đến khái niệm tình báo đã che mắt các nhà lãnh đạo cấp cao của Israel trước tất cả các dấu hiệu rõ ràng - trong đó có rất nhiều dấu hiệu - rằng Ai Cập và Syria sắp tấn công. Ủy ban Agranat mượn thuật ngữ này từ Thiếu tướng Eli Ze'ira, Giám đốc Aman - cơ quan tình báo quân đội Israel, và là người chịu trách nhiệm cuối cùng trong việc phân tích các báo cáo do Mossad (Viện tình báo và đặc nhiệm Israel), Shin Bet (tình báo nội địa Israel) và các cơ quan khác thu thập. Ze’ira dùng nó để ám chỉ “quan niệm” về ý đồ của người Ai Cập mà ông và các nhà phân tích đồng nghiệp đã chia sẻ.
"Konseptzia" dựa trên hai giả định cơ bản. Đầu tiên, Ai Cập sẽ không tham chiến chống lại Israel cho đến khi nước này có được khả năng quân sự cần thiết để làm tê liệt lực lượng không quân của Israel. Những khả năng này bao gồm, cùng với các hệ thống vũ khí khác, máy bay ném bom tầm xa có thể tấn công sâu vào các mục tiêu của Israel. Thứ hai, Syria sẽ không tiến hành một cuộc tấn công lớn trừ khi phối hợp với Ai Cập.
Thông qua "konseptzia", Ze'ira đã sàng lọc hàng loạt báo cáo mà ông nhận được cho thấy rằng người Syria và người Ai Cập đang trên đà bắt đầu một cuộc chiến tranh toàn diện. Ông lập luận rằng vì Ai Cập chưa sở hữu máy bay ném bom tầm xa nên Sadat chắc chắn chỉ đang đánh lừa. Nếu Ai Cập không chuẩn bị tấn công thì Syria cũng vậy.
Vào ngày 25/9, Vua Hussein của Jordan đã bí mật đi trực thăng tới một ngôi nhà an toàn của Mossad gần Tel Aviv, nơi ông gặp Golda Meir và cảnh báo bà rằng Ai Cập và Syria đang lên kế hoạch chung tấn công Israel. Nhưng Ze'ira vẫn không tin. Vào ngày 5/10, một ngày trước chiến tranh, Jerusalem được biết Moskva, người bảo trợ của Syria cũng như Ai Cập, đang sơ tán gia đình các sĩ quan Liên Xô khỏi Damascus và Cairo. Ze'ira một lần nữa phản ứng bằng cách đánh giá khả năng xảy ra chiến tranh là rất thấp.
Tổng thống Ai Cập, Sadat và các tướng lĩnh của ông đã lừa Ze'ira bằng cách dàn dựng một loạt thủ đoạn phức tạp và tinh vi nhằm làm cho người Israel không còn nhạy cảm với việc chuẩn bị cho chiến tranh.
Ví dụ, từ năm 1972 đến năm 1973, quân đội Ai Cập đã huy động 22 lần - khoảng mỗi tháng một lần. Những cuộc tập trận này đã ru người Israel vào giấc ngủ. Sadat mô tả trong hồi ký của mình rằng vào tháng 4/1973, ông đã ra hiệu lừa cho người Israel rằng chiến tranh sẽ diễn ra vào tháng tới. Ông viết: “Tôi không có ý định bắt đầu một cuộc chiến vào tháng 5, nhưng như một phần trong kế hoạch đánh lừa chiến lược của mình, tôi đã phát động một chiến dịch truyền thông đại chúng và thực hiện nhiều biện pháp phòng vệ dân sự khác nhau khiến người Israel tin rằng chiến tranh sẽ xảy ra (nhưng lại không phải)". Để rồi khi sự thật xảy ra, IDF chỉ nghĩ đó là một cuộc tập trận thường lệ.
Tuy nhiên, để đối phó với những tín hiệu lừa dối vào tháng 4, người Israel cũng đã tiến hành động viên binh lính một phần, một bước đi tốn kém về mặt kinh tế và chính trị, bởi vì lực lượng dự bị được rút ra từ các khu vực năng suất cao nhất của xã hội. Tuy nhiên, Tướng Ze'ira vẫn là người phản đối việc huy động quân. Ze'ira cho rằng Sadat đang lừa gạt vì ông ta không sở hữu máy bay ném bom tầm xa cần thiết để vô hiệu hóa không quân Israel.
Vào đầu tháng 10, khi quá trình huy động thực sự cho chiến tranh của Ai Cập đang diễn ra tốt đẹp, niềm tin của Ze'ira vào khả năng đọc được ý định của Sadat ngày càng tăng cao. Ngay cả sau khi Zamir chuyển tiếp thông điệp cảnh báo chiến tranh từ "Thiên thần" (điệp viên "vàng" của Israel), Ze'ira vẫn khẳng định rằng khả năng xảy ra chiến tranh là thấp, mặc dù lúc này các chỉ huy cấp cao đã sẵn sàng phớt lờ lời ông ta.
Ủy ban Agranat đã đưa ra báo cáo sơ bộ vào 1/4/1974, khiến chính trường Israel như hứng một trận động đất. Báo cáo kêu gọi sa thải một số quan chức quân đội, bao gồm cả Ze'ira và Tham mưu trưởng Elazar, những người đã bị cách chức ngay sau đó. Báo cáo hạn chế đánh giá hoạt động của các chính trị gia, nhưng hình ảnh mà nó tạo ra về một tầng lớp thượng lưu vô trách nhiệm đã khiến uy tín cá nhân Thủ tướng Meir bị hủy hoại và giúp làm mất tính hợp pháp của việc thành lập Đảng Lao động đã lãnh đạo đất nước kể từ khi thành lập. Không quá lời khi coi cuộc bầu cử Đảng Likud với chiến thắng của Menachem Begin vào năm 1977 một phần là dư chấn sau báo cáo của Ủy ban Agranat.
Nhưng hậu quả trực tiếp nhất của báo cáo là cuộc tranh luận mà nó tạo ra về sự thất bại của hệ thống cảnh báo sớm Israel, vốn vẫn diễn ra gay gắt cho đến tận ngày nay. Năm 1993, Ze'ira xuất bản một cuốn sách nhằm minh oan cho bản thân. Mặc dù ông có rất ít người bảo vệ, vẫn có nhiều nhà phân tích và sử gia ít nhất ủng hộ quan điểm của ông về một việc. Đó là tuyên bố rằng "Thiên thần", nguồn tin của Israel ở cấp cao nhất trong bộ máy quyền lực của Ai Cập, là một điệp viên hai mang mà thông qua đó Sadat đã truyền thông tin đánh lừa người Israel.
"Thiên thần", mà nay chúng ta đã biết, là Ashraf Marwan, con rể của cố Tổng thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser và là thành viên đáng tin cậy của giới cầm quyền. Mossad đã sử dụng Marwan như một nguồn tin trong bốn năm trước Chiến tranh Yom Kippur. Trong thời gian đó, ông đã cung cấp cho họ rất nhiều thông tin vô giá. Nhưng một số người Israel, trong đó có Ze'ira, cho rằng Marwan quá hoàn hảo để có thể tin tưởng. Tuyên bố cho rằng Marwan là điệp viên hai mang dựa trên ý tưởng rằng thông tin mà ông ta cung cấp đóng vai trò là mồi nhử để lôi kéo người Israel tin vào thông tin đánh lừa về kế hoạch chiến tranh của Sadat. Theo phân tích này, ngay cả báo cáo cuối cùng của Marwan về thời điểm bùng nổ chiến tranh cũng là thông tin sai lệch, vì nó xác định thời gian xảy ra vụ tấn công là 6 giờ thay vì 2 giờ chiều.
Hành vi của chính phủ Ai Cập cũng đã củng cố tuyên bố của những người cho rằng Marwan là điệp viên hai mang. Năm 2007, sau khi Marwan qua đời, ông đã nhận được lời từ biệt như một người hùng ở Cairo. Tổng thống khi đó là Hosni Mubarak tuyên bố rằng Marwan “đã thực hiện những hành động yêu nước mà vẫn chưa đến lúc tiết lộ”.
Căn cứ thứ hai nghi ngờ về thân phận của Marwan dựa trên hoàn cảnh cái chết của ông. Vào tháng 6/2007, Marwan bị ngã từ ban công căn hộ của mình ở Carleton House Terrace, một con phố sang trọng giữa trung tâm London. Rất có thể, các đặc vụ tình báo Ai Cập đứng sau cái chết này, sau khi mô tả về vai trò của Marwan trong Mossad bị rò rỉ cho báo chí Israel. Và ai đã tiết lộ tên của anh ấy? Bằng chứng chỉ ra Ze'ira, người mà tòa án Israel đã xét xử một vụ án kết thúc bất phân thắng bại.
Cuối cùng thì "Thiên thần" - con rể của Gamal Abdel Nasser là gián điệp của Israel hay là điệp viên hai mang phục vụ cho người Ai Cập? Có phải những kẻ ám sát đã ném ông ta từ ban công, hay chỉ đơn giản là ông ngã? Ze'ira đã tiết lộ danh tính của "Thiên thần" trong một nỗ lực vô ích để minh oan cho bản thân, hay tên của Marwan đã đến được với báo chí thông qua một con đường khác? Không có gì ngạc nhiên khi Netflix sản xuất bộ phim "The Angel" (dựa trên cuốn sách tiểu sử cùng tên của Uri Bar-Joseph), về Marwan. Mỗi dịp tưởng niệm Chiến tranh Yom Kippur, mọi sự chú ý lại bị thu hút đến các tài liệu được giải mật từ kho lưu trữ và cuộc tranh luận lại bắt đầu.
Mới tháng trước, chính Mossad (Viện tình báo và đặc nhiệm Israel) cũng tham gia vào "truyền thống" này, kỷ niệm 50 năm chiến tranh bằng cách xuất bản một tập tài liệu được giải mật liên quan đến cuộc tranh luận tình báo. Khi giám đốc Mossad, David Barnea tổ chức buổi ra mắt sách tại trụ sở cơ quan này, ông không thể cưỡng lại cơ hội bác bỏ những tuyên bố rằng "Thiên thần" là một điệp viên hai mang. Ông nói, những tuyên bố này “đã được kiểm tra. . . trước chiến tranh bởi liên quân IDF-Mossad, cũng như sau chiến tranh. Các kết luận đều giống nhau: Thiên thần là một đặc vụ quan trọng và mang tính chiến lược”. Giám đốc tình báo của Israel đã phá vỡ quy tắc im lặng liên quan đến các hoạt động tình báo trước đây để thông báo cho công chúng rằng Mossad đã có được thông tin chính xác vào tháng 10/1973; chính tình báo quân sự, cơ quan có nhiệm vụ phân tích và giải thích thông tin đó, mới là nguyên nhân của sai lầm.
Nhiều người Israel cho rằng Chiến tranh Yom Kippur gây ra cái giá phải trả cao hơn Chiến tranh Sáu ngày là vì họ đã bị bất ngờ. Ủy ban Agranat tuyên bố rằng Ze'ira "đảm bảo với IDF rằng ông ta sẽ có thể đưa ra cảnh báo trước về bất kỳ ý định nào của kẻ thù nhằm phát động chiến tranh tổng lực kịp thời để cho phép triệu tập lực lượng dự bị một cách có trật tự". Báo cáo giả định rằng cảnh báo sớm sẽ gây ra một cuộc huy động lớn, từ đó sẽ làm thay đổi đáng kể kết quả của cuộc chiến, khiến nó giống năm 1967 hơn.
Đây là những giả định đáng ngờ và việc hiểu được Chiến tranh Yom Kippur đòi hỏi phải đặt câu hỏi về chúng. Cuộc tấn công ban đầu của Ai Cập đã khiến người Israel ngạc nhiên không chỉ về thời điểm mà còn về sức mạnh của nó. Ngay cả khi IDF biết trước về ngày sắp diễn ra, họ vẫn chưa chuẩn bị sẵn sàng, do cái mà các chuyên gia quân sự ngày nay gọi là "khái niệm hoạt động" của Sadat, hay CONOPS (Concept of operations). Một thuật ngữ quân sự hữu ích, nó đề cập đến cách một người chỉ huy kết hợp vũ khí và khả năng của mình để giải quyết các vấn đề quân sự. Giống như các kế hoạch, chúng khá chân thực, nhưng không giống như xe tăng và pháo binh, các nhân viên tình báo không thể nắm bắt được chúng trong một lát cắt duy nhất. Nhờ bản chất ít hữu hình hơn, chúng có thể lọt vào kẽ hở của việc phân tích thông tin tình báo thông thường.
CONOPS của Sadat chắc chắn đã lọt vào kẽ hở trong phân tích của người Israel, và cú đấm đầu tiên của ông đã giáng thẳng vào mặt họ. Sadat đã kết hợp các năng lực quân sự đã biết—tên lửa SAM và Sagger—theo một cách hoàn toàn bất ngờ. Liệu việc huy động lực lượng dự bị sớm và có trật tự có giúp các phi công Israel vượt qua chiếc ô SAM dễ dàng hơn đáng kể không? Thật khó để tìm ra phương cách đó.
Xem tiếp Kỳ cuối: Tính toán của Kissinger