Bài 2: Miếu Lộc Thọ - nơi chôn cất thi hài của Đinh Triều Quốc Mẫu
Sách Đại Việt sử ký toàn thư (tập 1 – NXB Văn hóa Thông tin 2004, trang 203), phần kỷ nhà Đinh có viết: “Vua họ Đinh tên húy là Bộ Lĩnh, người ở động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay là huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình), là con trai Đinh Công Trứ, thử sử Hoan Châu. Dẹp yên các sứ quân, tự lập làm đế”… Vua còn nhỏ mồ côi cha, mẹ họ Đàm.
Bài vị trong miếu thờ Đàm Thái Hậu – thân mẫu vua Đinh ở Lộc Thọ, Hưng Hà, Thái Bình. |
Rất có thể khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua thì thân mẫu ông đã mất, vì thế trong chính sử chỉ viết: “Mậu Thìn năm thứ nhất (968), Tống Khai Bảo năm thứ nhất. Vua lên ngôi đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, dời kinh đô về động Hoa Lư… Bầy tôi dâng biểu Đại Thắng Minh Hoàng Đế” (sách đã dẫn trang 205).
Hiện nay chúng ta chỉ được biết mộ vua Đinh được an táng tại núi Yên Ngựa – Ninh Bình. Vậy mộ mẹ vua Đinh ở đâu? Ngay ở Ninh Bình cũng không thấy có mộ của thân mẫu vua Đinh Tiên Hoàng. Hiện tại ở trang Thụy Thú xưa (nay là thôn Lộc Thọ - xã Độc Lập - Hưng Hà) có một ngôi miếu cổ thờ đinh triều Quốc Mẫu thời Đinh là Thiềm Bà (Thiềm Nương). Hiện trong miếu còn lưu giữ các sắc phong, thần tích, ngọc phả do Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn vào ngày 1 tháng giêng (1572) – năm Hồng Phúc thứ nhất.
Theo ngọc phả thì sau khi Đinh Bộ Lĩnh thống nhất thiện hạ: “Nhân một hôm Đinh Tiên Hoàng trở lại Thụy Thú, có ý định đón thân mẫu (Bà Thiềm) về Hoa Lư. Thế nhưng ý trời khiến bà Thiềm bị bệnh mất đi ở đây. Vua Đinh đã lệnh táng bà ở ngay nơi doanh đầu xưa. Huyệt sâu 1 trượng, 2 thước (4,8m) lấy đất đá lấp lên, rồi sức cho dân làng lập miếu ở trên để thờ tự. Rồi lệnh miễn giảm tô, thuế cho dân thôn Thụy Thú; thôn Thụy Thú được coi là mộ làng thuộc con dân quê cũ của bà. Ngài còn mua 51 mẫu ruộng và cho 4 hốt bạc để dân làng canh tác, lấy hoa lợi phụng thờ đèn nhang, coi giữ miếu đường, lưu truyền muôn đời sau”… Ông cũng lệnh cho 4 tướng (Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ, Sát Công) dựng bảng chiêu mộ dân chúng bảo vệ Hoàng lăng mộ địa.
Sau khi Đinh Điền, Phạm Thọ bị bắt (cùng uống thuốc độc tự sát ngày 25 tháng 12), Nguyễn Bặc chạy về Ái Châu - Thanh Hóa, Lưu Công, Sát Công về thôn Thụy Thú… chiêu mộ dân chúng tích trữ lương thảo, có hàng vạn người chia nhau đóng 3 đồn chống đánh Lê Đại Hành (trích ngọc phả). Sau này Nguyễn Bặc bị giết, 2 người cùng xuống sông tự tử vào ngày 10 tháng 5. Xưa kia dân làng đã lập đình miếu để thờ 4 vị. Căn cứ theo ngọc phả thì khi Lý Thái Tổ lên ngôi đã gia phong ban tặng duệ hiệu cho các ngài là “Thượng đẳng phúc thần”.
Ngọc phả còn ghi rõ quy định tổ chức lễ vào các ngày sinh, ngày mất của Đàm Thái Hậu và các tướng. Hiện trong miếu còn lưu đạo sắc phong thời Lê Vĩnh Hựu – năm thứ 2 (1736), do tiến sĩ Nguyễn Hiền Phụng sao lại theo bản chính để ban cấp cho dân Thụy Thú thờ. Ngoài ra trong miếu còn có ba đạo sắc phong triều Nguyễn: Triều vua Thành Thái, Hoàng Triều Duy Tân, Hoàng Triều Khải Định ban phong cho Đức Thái Hậu là dịch bảo trung hưng linh phù chi thần. Theo truyền thuyết các triều Lý, Trần, Lê đều có sắc phong nhưng đã bị thất lạc. Hiện còn ba đạo sắc của ba triều vua Nguyễn nói trên phong tặng cho 4 vị: Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ, Sát Công.
Qua khảo sát thực tế tại miếu “Đinh Triều Quốc Mẫu”, các cụ già cho biết: Trang Thụy Thú vào thời nhà Đinh đã xây dựng ngôi miếu cổ nhìn về hướng tây nam, sau này mới xây thêm tòa bái đường ở phía trước. Ngôi miếu hiện tại tọa lạc trên khu đất rộng 1.563 m2, cách làng Lộc Thọ khoảng 200 m. Trước miếu là hồ nước rộng, ba mặt Đông, Tây, Bắc là cánh đồng lúa. Phía đông nam là con đường thẳng nối miếu với đình làng (đình đã bị phá), sân miếu đủ rộng rước kiệu cho những ngày tế lễ và hội làng.
Miếu được xây dựng cấu trúc hình chữ Đinh. Trước là ba gian bái đường, có tàu mái cong (đặt trên bẩy đỡ chạm hoa lá, đầu bẩy chạm chữ Thọ, cửa miếu kiểu ngưỡng cao, cánh cửa bức bàn bằng gỗ lim soi chỉ, góc vuông có nghê chầu mặt nguyệt. Tiếp tiền sảnh là hậu cung (kiến trúc theo kiểu Thượng, hậu Cung), tường hai bên xây lắp 2 cửa chớp vuông nhỏ, gạch xây miếu là loại gạch mỏng, bản rộng (gạch cổ). Trong miếu, vật liệu làm khung, xà toàn bằng gỗ lim, cột quân, cột cái tròn, xà bẩy, câu đầu hình má trai, soi chỉ và chạm hoa lá. Bốn vì kiểu quang đèn chồng đấu hoa sen. Cấu trúc bên trong, bên ngoài của miếu thể hiện rõ sự dung dị, cổ kính của ngôi miếu cổ.
Theo lời kể của các cụ trong làng và thần phả còn lưu lại thì miếu Lộc Thọ cách ngày này khoảng 1035 năm, đã qua nhiều lần trùng tu, tái tạo. Lần cuối là vào năm Giáp Tí (triều vua Khải Định, năm thứ 9 – 1924). Thần tích ngọc phả của miếu chép rằng miếu thờ: “Quốc Mẫu Thiềm Nương Hoàng Thái Hậu”. Gian chính giữa của miếu treo bức đại tự: ”Đinh hậu thánh miếu”. Gian bên có bài vị thờ bốn tướng: Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ, Sát Công. Phía trên bài vị có bức đại tự chạm khắc một bài thơ ca ngợi công đức, lòng trung dũng của các tướng đã hi sinh vì sự phục hưng của nhà Đinh. Tương truyền sau khi Lê Hoàn lên làm vua, các tướng trung thành với vua Đinh bị giết, dân làng đã xây hậu cung lên trên mộ của bà mẹ vua Đinh để thờ cúng; cách miếu khoảng 500 m còn làm ngôi mộ giả. Năm 1973, khi đào đất lấy gạch, phát hiện có ngôi mộ cổ được đóng khung gỗ như cũi, ở giữa có quan tài hình thiền, khi bật nắp quan tài ra, bên trong chỉ có than và thóc đã bị đốt. Trước cửa hậu cung có bức đại tự: mẫu nghi thiên hạ. Trong hậu cung có bài vị thờ bà Thiềm Nương Hoàng Thái Hậu. Trong miếu còn có các đôi câu đối ca ngợi Hoàng Thái Hậu:
1. Quốc mẫu phương lưu đinh thế kỉ/Khôn nghi bỉnh xướng lộc giang từ.
2. Bát trâm tường thiển nam thiên hạ/Kị mã tâm hùng nữ trượng phu.
Hiện ở miếu không có bia, các cụ già cho biết người xưa truyền lại không được dựng bia vì sợ lộ ra ngôi mộ của bà mẹ vua Đinh đang chôn giấu trong hậu cung sẽ bị kẻ địch đào xới. Theo thần tích trước đây làng còn 55 mẫu ruộng (ruộng thần từ) giao cho các suất đinh trong làng cày cấy lấy hoa lợi để đóng góp các ngày lễ hội, ngày sinh, ngày giỗ của bà Đàm Thị cùng các tướng.
Căn cứ vào truyền thuyết trong nhân dân, thông qua thần tích, sắc phong, ngọc phả chúng ta có thể khẳng định: Ngôi miếu cổ ở trang Thụy Thú xưa – làng Lộc Thọ, xã Độc Lập, Hưng Hà, Thái Bình ngày nay đang lưu giữ hài cốt của bà Đàm Thị – thân mẫu của vua Đinh Bộ Lĩnh.
Đặng Hùng
Bài cuối: Phát hiện mộ phần của Hoàng Hậu vua Đinh