Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững là một trong những điểm sáng của Việt Nam, được các nước trên thế giới ghi nhận. Những kết quả đạt được trong thời gian qua cho thấy, Việt Nam đã đi đúng hướng và đem lại niềm tin của người dân vào đường lối, quan điểm chỉ đạo của Đảng.
Giảm cho không và tăng cho vay ưu đãi
Theo Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Hoàng Thị Hạnh, để giảm nghèo một cách thực chất, cần tiếp cận theo tư duy là chuyển những người nghèo, hộ nghèo từ đối tượng sang chủ thể và phải quan tâm hỗ trợ kinh tế hộ, nhóm hộ, coi đây là đòn bẩy cho công tác giảm nghèo.
Đổi mới trong tư duy về chủ trương giảm nghèo theo hướng giảm cho không và tăng cho vay ưu đãi là hướng đi cần tiếp cận cho vấn đề giảm nghèo. Nhà nước chỉ hỗ trợ về cơ chế, chính sách, nguồn lực và hướng dẫn, còn bản thân người nghèo, hộ nghèo phải cố gắng vươn lên và phải làm sao các chính sách giảm nghèo phải khơi dậy được khát vọng và tạo ra động lực để cho những huyện nghèo mong muốn thoát nghèo.
Bà Nguyễn Thị Mai Hoa, đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Tháp mong rằng cần quan tâm hơn tới những hộ không phải là hộ nghèo nhưng sống trong cùng khu vực với các hộ nghèo, trong địa bàn nghèo. Những hộ này phải được quan tâm bằng những chính sách cụ thể để họ có thể trở thành những hạt nhân, hỗ trợ cho những hộ nghèo xung quanh và liên kết cùng với các hộ nghèo để đưa cộng đồng thoát nghèo. Cần đổi mới trong quan điểm xây dựng chính sách giảm nghèo theo hướng đầu tư cho con người.
Trong giai đoạn 2016-2020, theo số liệu thống kê, Nhà nước đã dành vốn đầu tư khoảng 74% và vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng với quan điểm và phát triển kinh tế - xã hội vùng nghèo thì hạ tầng phải đi trước một bước. Đây là một quan điểm đúng, nhưng nhìn lại kết quả về giảm nghèo cho thấy tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo, thoát nghèo vẫn chưa đạt như chúng ta mong muốn.
Như vậy, rõ ràng hiệu quả công tác giảm nghèo không thể chỉ dựa vào chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng mà điều quan trọng, cốt lõi hơn đó chính là phải thiết kế được những chính sách mềm dựa trên nhu cầu của người dân và phải tập trung thay đổi chủ thể là người dân.
Theo quan điểm của bà Nguyễn Thị Mai Hoa, cần tiếp tục đầu tư cho sức khỏe người dân, giáo dục và các vấn đề đào tạo nghề, sinh kế cho người dân. Trong giai đoạn tới cần tập trung chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật, đẩy mạnh hoạt động đào tạo nghề. Cần quan tâm phát triển các hoạt động sinh kế tại chỗ nhằm phát huy lợi thế của địa phương, vùng nghèo, như sử dụng những kiến thức bản địa, khai thác những sản phẩm bản địa và những sản phẩm có tiềm năng phát triển hoặc cung cấp thông tin về thị trường lao động, kết nối, giới thiệu việc làm cho những người nghèo ở vùng nghèo.
Tiếp đó là vấn đề thực hiện bình đẳng giới và phát huy vai trò phụ nữ trong phát triển kinh tế và giảm nghèo bền vững. Tiếp tục quan tâm lồng ghép giới trong mục tiêu Chương trình mục tiêu quốc gia là cần thiết và trong Tờ trình của Chính phủ cũng đã tiếp thu theo hướng sẽ đánh giá, bổ sung thực trạng bình đẳng giới trong thực hiện Chương trình và làm rõ đối tượng nội dung cơ chế để bảo đảm có sự tham gia của phụ nữ.
“Tôi đề nghị, để lồng ghép giới một cách hiệu quả hơn trong chương trình Ban Chỉ đạo Chương trình mục tiêu quốc gia cần cụ thể hóa quan điểm lồng ghép giới trong nguyên tắc phân bổ vốn cho toàn bộ chương trình cũng như ở từng dự án cụ thể và xem xét đưa ra tỷ lệ tối thiểu có sự tham gia của phụ nữ trong việc lập kế hoạch và tổ chức thực hiện để phụ nữ tham gia thiết thực nhất vào Chương trình giảm nghèo”, bà Nguyễn Thị Mai Hoa kiến nghị.
Bãi bỏ chính sách hỗ trợ mang tính bao cấp
Theo bà Nguyễn Thị Minh Trang, đại biểu Quốc hội tỉnh Vĩnh Long, trong điều kiện nguồn lực ngân sách có hạn, việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 trong bối cảnh mới sẽ đối diện với những khó khăn, thách thức và yêu cầu mới, nhất là khi áp dụng chuẩn nghèo mới thì tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo sẽ tăng lên đáng kể.
Bên cạnh đó, đại dịch COVID-19 sẽ ảnh hưởng trực tiếp, tiêu cực đến nhóm đối tượng yếu thế đã khó khăn nay càng khó khăn. Thực trạng đó sẽ tác động không nhỏ đến việc thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu và các chỉ tiêu để giải quyết mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản. Do đó, Chính phủ và Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cần quyết liệt chỉ đạo rà soát, đánh giá tổng thể, dự báo cơ hội, thách thức đối với các chương trình mục tiêu quốc gia đã, đang chuẩn bị triển khai thực hiện để tránh trùng lắp về nội dung, địa bàn, nguồn lực đầu tư và đối tượng thụ hưởng; từ đó tối ưu hóa các giải pháp triển khai thực hiện các đề án, tiểu đề án.
Ngoài ra, Chính phủ tiếp tục rà soát, dỡ bỏ, bãi bỏ các chính sách hỗ trợ mang tính bao cấp, cho không, làm nảy sinh tư tưởng ỷ lại, trông chờ, so bì chính sách, khơi dậy ý thức chủ động vượt khó vươn lên thoát nghèo của người dân. Việc xác định các tiêu chí hộ nghèo trong giai đoạn mới phải thực chất hơn. Các tiêu chí về thu nhập, tiêu chí đánh giá đo lường đa chiều cần rõ ràng, thiên về định lượng. Việc xây dựng thiết chế, chính sách cần quan tâm đồng đều đến các đối tượng hộ nghèo, hộ cận nghèo và cả hộ mới thoát nghèo, bởi khoảng cách giữa các nhóm đối tượng này là không lớn, chỉ cần một tác động nhỏ từ xã hội cũng có thể làm cho họ bị tái nghèo.
Cần tiếp tục gắn kết chặt chẽ hơn công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý với các tiêu chí giảm nghèo trong giai đoạn mới, giúp người dân tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về pháp lý liên quan đến đời sống sinh hoạt, hôn nhân gia đình, đất đai…
Việc này chính là thiết thực bảo vệ người nghèo trước tác động tiêu cực của xã hội để họ không bị rơi vào cạm bẫy tín dụng đen, ma túy và các hành vi vi phạm pháp luật, tệ nạn xã hội khác, tăng khả năng tiếp cận có hiệu quả và hưởng thụ tối đa nguồn lực ưu đãi dành cho họ.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ vừa ký ban hành Nghị quyết số 24/2021/QH15 phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025. Nghị quyết đề ra mục tiêu tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1-1,5%/năm; tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm trên 3%/năm; 30% huyện nghèo, 30% xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng nghèo, đặc biệt khó khăn.