Thông tin từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, gần 50% khu chế xuất, KCN (KCN) trên phạm vi cả nước chưa đầu tư hệ thống xử lý nước thải; số còn lại đã đi vào hoạt động nhưng hiệu quả của nó đến đâu trong việc bảo vệ môi trường vẫn là ẩn số. Riêng các tỉnh nằm trong lưu vực sông Đồng Nai dù có tốc độ phát triển công nghiệp được đánh giá cao nhất nước, nhưng tình hình bảo vệ môi trường vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức.
Sống trong ô nhiễm
Được thành lập từ năm 2005, KCN Nam Tân Uyên nằm trên địa bàn huyện Tân Uyên (Bình Dương) có gần 50 dự án đã đi vào hoạt động. Tại khu vực ấp Ông Đông (xã Tân Hiệp), doanh nghiệp đã xây dựng một nhà máy xử lý nước thải tập trung loại A có công suất 12.000 m3/ngày đêm với tổng vốn đầu tư 18 tỷ đồng, nhằm phục vụ việc xử lý nước thải của các dự án trong KCN trước khi thải ra môi trường.
Tuy nhiên, gặp chúng tôi, chị Dương Thị Hồng - một người dân sống gần nhà máy xử lý nước thải, bức xúc: “Từ khi có nhà máy, hơn 40 hộ dân sống xung quanh phải chịu mùi hôi thối của nước thải chảy tràn ra bên ngoài, đặc biệt là vào mùa mưa. Suối Ông Đông vốn trước đây rất nhiều tôm cá nhưng hiện đã trở thành con suối chết với dòng nước đen ngòm do chứa nước xả thải của nhà máy”.
Đầm chứa nước thải của Công ty Vedan, một trong những công ty gây ra ô nhiễm sông Thị Vải thời gian qua. Ảnh :Sỹ Tuyên - TTXVN |
Là điểm đen bị người dân khiếu nại nhiều lần về gây ô nhiễm môi trường, KCN Mỹ Xuân A2 thuộc huyện Mỹ Xuân (Bà Rịa - Vũng Tàu) tập trung nhiều dự án nằm trong nhóm có mức độ gây nguy hại đến môi trường cao, như dệt nhuộm, giày da… Hầu hết các doanh nghiệp hoạt động đến từ Đài Loan (TQ) và nhà máy xử lý nước thải cũng do chính đối tác Đài Loan (TQ) thực hiện và vận hành. Theo thiết kế giai đoạn 1, hệ thống xử lý nước thải tập trung của KCN này có công suất khoảng 7.500 m3/ngày đêm và sẽ góp phần giải quyết triệt để tình trạng ô nhiễm môi trường trong KCN. Tuy nhiên, theo phản ánh của nhiều người dân sống quanh khu vực, chất lượng nước thải vẫn chưa cải thiện nhiều. Mùi hôi thối và tanh nồng từ các loại hóa chất tẩy màu của thuốc nhuộm vẫn làm khó thở những ai lỡ hít phải.
Tỉnh Lâm Đồng có hai KCN đi vào hoạt động, nhưng đều chưa có nhà máy xử lý và nước thải được xả thẳng ra môi trường. Tại KCN Phú Hội (huyện Đức Trọng), mùi hôi thối nồng nặc bốc lên từ nước thải của một doanh nghiệp Nhật Bản cách xa cả chục mét. Màu nước đen ngòm từ nhà máy chảy ra ngoài theo các dòng chảy tự nhiên tràn cả xuống lưu vực sông Đồng Nai. KCN Lộc Sơn nằm trên địa bàn phường Lộc Sơn, thị xã Bảo Lộc thì tình trạng có đỡ hơn khi tỉnh chỉ chú trọng thu hút các DN ít gây ô nhiễm. Tuy nhiên, theo ông Triệu Thanh Nguyên – GĐ Công ty Phát triển hạ tầng KCN Lộc Sơn, người dân vẫn than phiền nhiều về tình trạng xả nước thải của KCN và tỉnh đang gấp rút kêu gọi đầu tư xây dựng hệ thống xử lý.
Ngang nhiên vi phạm
Theo kết quả khảo sát của Trung tâm quan trắc môi trường thuộc Tổng cục Môi trường, hiện khoảng 70% trong số hơn 1 triệu m3 nước thải/ngày từ các KCN đang được xả thẳng ra môi trường, không qua xử lý. Trong đó, tập trung nhiều nhất là vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, bao gồm: TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương… với hơn 400.000m3/ngày đêm. Ngoài 95 khu chế xuất, KCN vẫn chưa đầu tư hệ thống xử lý nước thải, các KCN đã đầu tư rồi nhưng hệ thống xử lý vận hành lại không hiệu quả, thường xuyên xả nước thải chưa đạt yêu cầu ra môi trường. “Điều đáng lo ngại khác, tất cả các KCN vẫn chưa xây dựng hệ thống thu gom và xử lý khí thải hay chất thải rắn. Trong khi đó, phần lớn các nhà máy trong KCN đều sử dụng công nghệ sản xuất lạc hậu, cũng như ý thức tự giác chấp hành việc đấu nối vào khu xử lý chung vẫn chưa cao”, ông Lê Hồng Hải - Bộ phận dự án Công ty CP Sonadezi Long Thành, cho biết.
Tại TP Hồ Chí Minh, 6/15 KCN đã đầu tư hệ thống xử lý nước thải, nhưng qua kiểm tra đã phát hiện có nồng độ chất thải vượt quy chuẩn cho phép từ gần 2 lần đến gần 40 lần. Hàng loạt KCN xả thải gây ô nhiễm môi trường đang nằm trong “tầm ngắm” của các ngành chức năng, như: KCN Cát Lái 2, Hiệp Phước, Tân Tạo, Tân Thới Hiệp… Những đơn vị khác nhẹ hơn là: KCN Tân Phú Trung, Khu chế xuất Linh Trung III… Trong khi đó, tỉnh Bình Dương có 28 KCN với tổng diện tích hơn 8.700 ha, trong đó 21 KCN đã đi vào hoạt động với tổng lượng nước thải công nghiệp khoảng 49.000 m3/ngày đêm. Qua kiểm tra của các ngành chức năng mới đây đã phát hiện 14/21 KCN ở tỉnh này xả thải vượt chuẩn cho phép. Những KCN được xếp hạng “đen” là KCN Bình Đường, Sóng Thần 2, Tân Đông Hiệp A, Tân Đông Hiệp B…
Thực tế thời gian qua, các KCN đã đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nhiều tỉnh, thành và là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng công nghiệp, tăng khả năng thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Tuy nhiên, sau thời gian “bùng nổ” phát triển các KCN trên phạm vi cả nước, hiện nhiều tỉnh, thành đang đau đầu với bài toán giải quyết hậu quả về ô nhiễm môi trường, do thời gian dài lơ là công tác quản lý. Tính toán của các chuyên gia kinh tế, Việt Nam có thể mất 5,5% GDP hàng năm do ô nhiễm môi trường và nếu không được khắc phục sớm tình trạng sẽ trở nên tồi tệ hơn và trở thành trở ngại cho sự phát triển kinh tế bền vững cũng như ổn định cuộc sống người dân.
Báo động đỏ môi trường
Có thành phần rất đa dạng, nước thải ở các KCN chủ yếu là những chất lơ lửng, chất hữu cơ, chất dinh dưỡng và kim loại nặng… Tại những khu vực bị phát hiện ô nhiễm môi trường cao, nồng độ các chất thải như BOD, COD, SS, kim loại nặng… đều vượt quy chuẩn loại B, nước biến thành sông đen, không thể sử dụng được và gây mùi hôi thối ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống người dân. Riêng về khí thải, nồng độ các chất như bụi, NO2, CO, SO2 và tiếng ồn quan trắc đều vượt mức cho phép nhiều lần. “Điều đáng lo là các chất thải trên đã và đang thấm sâu vào môi trường nước, gây tổn hại không ít đến sức khỏe cộng đồng. Qua số liệu quan trắc của chúng tôi, các chỉ tiêu về ô nhiễm đang có sự gia tăng theo từng năm với mức độ ngày càng nghiêm trọng hơn”, ông Lê Viết Bình - PGĐ Trung tâm quan trắc & kỹ thuật môi trường tỉnh Đồng Nai, cho biết.
Báo cáo về hiện trạng môi trường của tỉnh Đồng Nai, cho thấy mạng lưới sông Đồng Nai (với tổng số trên 60 sông suối) phần lớn đang bị ô nhiễm trầm trọng. Cùng với chất thải sinh hoạt, cụm công nghiệp xen lẫn trong dân cư, nước xả ở các KCN trên địa bàn... đang làm môi trường của tỉnh càng ngày càng xấu thêm. Với 30 KCN được thành lập, trong đó có 21 KCN đã đi vào hoạt động, tổng lượng nước thải ra môi trường của các KCN vào khoảng 70.000 m3/ ngày đêm. Sông Đồng Nai đoạn chảy qua thành phố Biên Hòa là đoạn sông chịu tác động khá nhiều nguồn thải có nồng độ và thải lượng ô nhiễm rất cao từ nguồn thải công nghiệp của KCN Biên Hòa 1, Biên Hòa 2, Amata, Loteco…
Trong khi đó, tại khu vực sông Thị Vải - ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu, ô nhiễm hữu cơ diễn ra hầu hết ở các khu vực từ thượng lưu đến rạch Nước Lớn và khu vực Nhà máy Nhiệt điện Phú Mỹ. Số liệu quan trắc tại khu vực này cho thấy nồng độ ô nhiễm hữu cơ như: DO, COD, BOD5… thường rất cao. Những KCN đang tác động trực tiếp lên chất lượng nguồn nước sông Thị Vải gồm có: KCN Nhơn Trạch 1, Nhơn Trạch 2, Gò Dầu… Theo ông Bình, ngoài vấn đề ô nhiễm nguồn nước hiển hiện trước mắt, về lâu dài, vấn đề ô nhiễm môi trường đất sẽ ngày càng tăng lên theo sự tăng mức độ phát triển của các KCN.
Khó khăn quản lý
Bên lề Hội thảo tham vấn xây dựng Quy hoạch bảo vệ môi trường lưu vực hệ thống sông Đồng Nai được tổ chức gần đây tại TP Hồ Chí Minh, rất nhiều đại biểu khẳng định: Hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường của nước ta mặc dù đã cải thiện nhiều nhưng vẫn chưa hoàn thiện, thiếu tính đồng bộ cũng như thiếu những văn bản chi tiết hướng dẫn việc thực hiện quy chế quản lý chất thải nguy hại. Thực tế khó khăn này dẫn đến thực trạng nhiều địa phương áp dụng chưa thống nhất, lúng túng và nhất là thiếu các chế tài xử phạt cụ thể đối với những hành vi vi phạm. “Quyền hạn pháp lý của các tổ chức bảo vệ môi trường, đặc biệt là lực lượng cảnh sát môi trường, còn nhiều hạn chế đã tác động không nhỏ đến việc xử lý những sai phạm mang tính răn đe. Bên cạnh đó, một phần cũng do sự chồng chéo, thiếu cơ chế phối hợp trong công tác thanh tra, kiểm tra thực hiện giữa các ngành chức năng về quản lý nhà nước về môi trường”, Tiến sĩ Trần Hồng Thái, Viện Khoa học khí tượng thủy văn và Môi trường, nhận xét.
Xuất phát từ cao nguyên Lâm Viên thuộc tỉnh Lâm Đồng, lưu vực sông Đồng Nai với chiều dài 1.360 km đi qua 12 tỉnh thành, bao gồm nhiều tỉnh thành có tốc độ phát triển kinh tế cao như: TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu… Khảo sát của các ngành chức năng, trên lưu vực sông Đồng Nai đặc biệt khu vực cuối dòng đang có hơn 100 KCN, hàng chục cụm công nghiệp và khoảng 20 triệu người dân đang mỗi ngày thải ra hàng triệu m3 nước ra sông, trong đó phần lớn là nước chưa qua xử lý. |
Là đơn vị làm hạ tầng KCN cũng như trực tiếp đầu tư, vận hành xử lý nước thải khu công nghiệp, theo ông Hải, “cái khó không phải thiếu kinh phí đầu tư, mà chủ yếu làm sao vận hành một cách hiệu quả, triệt để nhất. Với bất kỳ một doanh nghiệp nào được cấp phép đầu tư vào KCN, theo luật đều có cam kết với ngành chức năng về việc đảm bảo những quy định xả thải, tuy nhiên họ có thực hiện và làm nghiêm hay không mới là điều đáng nói. Thực tế sau khi đã cấp phép các thủ tục về môi trường, cần phải tăng cường công tác kiểm soát nhất là việc kiểm tra việc hoàn thành các công trình như đã phê duyệt cũng như đánh giá hiệu quả của nó, nếu như không đạt so với bản cam kết phải cho ngừng hoạt động ngay và bắt buộc bổ sung, làm đúng như quy định. Chỉ khi làm nghiêm như vậy, các ngành chức năng mới đỡ vất vả và chất lượng nước xả thải của các KCN mới mong đi vào nền nếp”.
Theo quy định của Bộ Tài nguyên-Môi trường, đến cuối năm 2010, những KCN tập trung chưa có nhà máy xử lý nước thải phải đóng cửa, nhưng thực chất vì nhiều lý do, vẫn còn nhiều KCN hoạt động và không biết đến khi nào mới tìm được nguồn vốn đầu tư. Để xử lý triệt để những KCN xả thải không đạt quy chuẩn cho phép đang là vấn đề nan giải, khi rất khó áp dụng biện pháp phạt bổ sung như buộc tạm ngưng hoạt động hoặc rút giấy phép đầu tư vì hoạt động của KCN liên quan đến hàng chục doanh nghiệp đang hoạt động. Thực tế theo phản ánh của nhiều doanh nghiệp, hình thức phạt đối với chủ đầu tư hiện nay còn quá nhẹ. “Ngoài ra, đa số các doanh nghiệp trong KCN chưa nhận thức đúng đắn về công tác bảo vệ môi trường cũng như tuân thủ các quy định của pháp luật đặt ra. Trong khi đó chế tài của ta vẫn chưa đủ mạnh để các doanh nghiệp sợ, tự giác chấp hành”, ông Hải nói thêm.