Định hướng áp dụng đúng đắn
Công nghệ thông tin có thể nói là yếu tố rất quan trọng để triển khai Cách mạng công nghiệp 4.0 trong ngành tài nguyên và môi trường nói riêng. Để đảm bảo điều kiện triển khai cần thiết hình thành, hoàn thiện và vận hành hạ tầng cơ bản của ngành Tài nguyên và Môi trường tuân thủ kiến trúc chính phủ điện tử ngành, bảo đảm an toàn thông tin gồm hạ tầng kỹ thuật công nghệ, hạ tầng tri thức.
Cơ sở dữ liệu đóng vai trò trung tâm, là tiền đề, điều kiện cần và đủ để đáp ứng nhu cầu thông tin của xã hội phục vụ quản lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, phát triển bền vững đất nước.
Có thể ứng dụng các sản phẩm của công nghệ 4.0 trong các hoạt động môi trường như quan trắc tự động môi trường ở các điểm xả thải, đo tự động mức độ ô nhiễm đối với các yếu tố môi trường như nước thải, không khí, áp dụng trong dự báo cảnh báo khí tượng thủy văn kết nối mặt đất với vệ tinh…, từ đó có hệ thống dữ liệu rất tốt và chính xác để phục vụ công tác quản lý.
Với đường bờ biển dài 3.260km, tổng bức xạ năng lượng mặt trời khoảng 5kW/h/m2/ngày ở các tỉnh miền Trung và miền Nam, 4kW/h/m2/ngày ở miền Bắc, năng lượng gió ước tính 500-1000kWh/m2/năm, Việt Nam có tiềm năng rất lớn về năng lượng mặt trời và năng lượng gió, trong đó năng lượng mặt trời được xác định là một trong các nguồn năng lượng rất dồi dào, việc khai thác và tận dụng có hiệu quả công nghệ của Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ mang lại nguồn năng lượng thân thiện với môi trường.
Công nghệ 4.0 phải được ứng dụng trong giảm tiêu thụ năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính, tận dụng chất thải công nghiệp và sinh hoạt trong kinh tế tuần toàn và giảm phát thải bằng không; đẩy mạnh phát triển công nghệ sinh học trong khôi phục, bảo tồn và phát triển hệ sinh thái tự nhiên.
Nhiều ứng dụng công nghệ thông minh của Cách mạng công nghiệp 4.0 làm tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả. Ứng dụng chụp ảnh vệ tinh, kết hợp với hệ thống thông tin địa lý và khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu lớn toàn diện
Để tham gia vào Cách mạng công nghiệp 4.0, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xác định đặc biệt chú trọng đến hoạt động khoa học và công nghệ, đánh giá được trình độ công nghệ, xây dựng được mạng lưới quy hoạch các tổ chức khoa học và công nghệ; đồng thời thúc đẩy được hoạt động khoa học và công nghệ đạt hiệu quả và có ứng dụng thực tế đảm bảo lợi ích.
Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Võ Tuấn Nhân đã chỉ đạo xây dựng mạng lưới trao đổi thông tin khoa học và kỹ thuật cho các nhà nghiên cứu và quản lý; đẩy mạnh hợp tác chặt chẽ giữa các tổ chức khoa học và công nghệ, các trường và doanh nghiệp ngành tài nguyên và môi trường.
Lĩnh vực quản lý môi trường là một lĩnh vực quản lý liên quan đến đa ngành. Mọi hoạt động điều tra cơ bản, quản lý, chỉ đạo, điều hành và chuyên môn nghiệp vụ của ngành đều dựa trên kết quả thu nhận, phân tích, xử lý, tổng hợp thông tin.
Việc xây dựng được một hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu lớn toàn diện về tài nguyên và môi trường và cơ chế để các tổ chức, cá nhân có thể khai thác, tiếp cận, sử dụng và tham gia đóng góp một cách rộng rãi trên cơ sở công nghệ, khả năng kết nối, phân tích, xử lý, chia sẻ của Cách mạng công nghiệp 4.0 là nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới.
Đến cuối năm 2018, cả nước đã có 23 tỉnh, thành phố có cơ sở dữ liệu về môi trường, trong đó có 12 tỉnh có cơ sở dữ liệu đầy đủ về chất thải rắn, nước thải và khí thải, 11 tỉnh có cơ sở dữ liệu được cập nhật thường xuyên các thông tin.
Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) đã xây dựng “Chính sách thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin, kỹ thuật số trong quản lý môi trường”. Giải pháp là cần tuyên truyền nâng cao nhận thức về thời cơ và thách thức của Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với cán bộ thuộc ngành môi trường; đào tạo, thu hút nguồn nhân lực công nghệ chất lượng cao ngành Tài nguyên và Môi trường, đào tạo kỹ năng sử dụng công nghệ, góp phần đẩy mạnh khả năng tiếp cận sử dụng công nghệ tiên tiến; đầu tư xây dựng trung tâm đào tạo khoa học, công nghệ tài nguyên môi trường và ngoại ngữ kết hợp với nghiên cứu, sản xuất một số sản phẩm công nghệ cao đáp ứng yêu cầu quản lý bền vững tài nguyên và môi trường, giảm thiểu ô nhiễm thích ứng với biến đổi khí hậu, đồng thời, mở rộng và đẩy mạnh hợp tác quốc tế tạo nền tảng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Bên cạnh đó, ngành Môi trường cần đẩy mạnh bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện các quy định pháp luật và các cơ chế, chính sách sửa đổi bổ sung đảm bảo tạo được môi trường pháp lý thuận lợi cho ứng dụng phát triển công nghệ, đẩy mạnh phát triển hạ tầng, tập trung nguồn lực thực hiện các chương trình dự án trọng điểm; xây dựng cơ chế công khai, chia sẻ thông tin trên môi trường mạng đến các cơ quan trong và ngoài ngành tài nguyên và môi trường; chia sẻ thông tin đến người dân; có chế tiếp nhận, xử lý thông tin điện tử trên môi trường mạng.
Có chính sách hỗ trợ và huy động nguồn vốn cho ứng dụng Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo điều kiện cho việc sử dụng có hiệu quả ngân sách nhà nước, quản lý giám sát việc sử dụng các nguồn vốn đầu tư cho Cách mạng công nghiệp 4.0 và có các biện pháp cụ thể nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn này; xây dựng các đề án khả thi để tìm kiếm nguồn vốn nước ngoài, liên kết, thuê mua và vận động tài trợ của các tổ chức, doanh nghiệp.
Hợp tác là một trong những yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy quá trình áp dụng Cách mạng công nghiệp 4.0 cho bảo vệ môi trường. Có thể hợp tác với nhiều hình thức như mời chuyên gia giỏi tham gia tư vấn, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn, hợp tác với các hãng sản xuất công nghệ nổi tiếng trên thế giới.
Ngành triển khai xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia đồng bộ, thống nhất kết nối giữa trung ương và địa phương, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của công tác quản lý môi trường trong giai đoạn mới và trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, đảm bảo khai thác hiệu quả, phục vụ yêu cầu quản lý, nghiên cứu trong công tác bảo vệ môi trường.
Những công nghệ cần được phát triển về bảo vệ môi trường, sử dụng bền vững tài nguyên, các công nghệ xử lý, tái chế chất thải, phân tích, quan trắc, giám sát và kiểm soát ô nhiễm, phục hồi môi trường phù hợp với điều kiện của Việt Nam và xu hướng của thế giới; đẩy mạnh ứng dụng và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu, phát triển công nghệ. Sử dụng và phát triển các nguồn năng lượng sạch, thay thế nguồn năng lượng hóa thạch bằng năng lượng sạch gồm năng lượng gió, mặt trời, địa nhiệt, năng lượng sinh khối…
Nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường Hoàng Dương Tùng nhấn mạnh, ngành Môi trường cần tăng cường hệ thống quan trắc tự động liên tục, các hệ thống camera, vệ tinh; thu nhận, xử lý và công bố số liệu quan trắc tự động chất lượng không khí xung quanh, nước ở các dòng sông, nước thải công nghiệp; phát thải khí thải của các nhà máy; số hóa các dữ liệu, số liệu quản lý; ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn… trong dự báo hành vi, kiểm soát ô nhiễm...
Bài cuối: Hướng tới phát triển kinh tế xanh