Người dân xã Lương Tâm (huyện Long Mỹ) khoan giếng khai thác nước ngầm phục vụ sinh hoạt, tưới tiêu, chống hạn. Ảnh: Huỳnh Sử - TTXVN |
Đợt xâm nhập mặn hiện nay tại Đồng bằng sông Cửu Long được các chuyên gia đánh giá là đặc biệt nghiêm trọng trong khoảng 100 năm qua, với đặc điểm là xuất hiện sớm so với trung bình nhiều năm, đồng thời xâm nhập sâu vào đất liền và kéo dài nhiều ngày.
Để có nước ngọt phục vụ nhu cầu ăn uống, sinh hoạt cho các khu vực trọng điểm về hạn hán, nhiễm mặn, giải pháp khoan khai thác nước ngầm là giải pháp hiệu quả nhất hiện nay. Nhưng biện pháp này cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ làm gia tăng tình trạng cạn kiệt nước cục bộ, ô nhiễm trên bề mặt, đẩy nhanh quá trình nhiễm mặn, sụt lún nền đất… nếu việc khai thác nước ngầm vẫn mang tính tự phát.
Theo đánh giá của ông Triệu Đức Huy, Phó Tổng Giám đốc Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia, nguồn nước ngầm ở Đồng bằng sông Cửu Long rải rác không đều, sự phân bố mặn, nhạt phức tạp, đan xen trong cùng một tầng chứa nước nên việc khai thác rất khó khăn, đòi hỏi phải có kỹ thuật, chuyên môn, chi phí đầu tư công trình lớn và phải phân bổ và sử dụng nguồn nước hợp lý.
Do đó các địa phương cần quản lý tốt việc khai thác nguồn nước ngầm, tránh khai thác tùy tiện, quá mức, để lại hậu quả về sau, đồng thời khuyến khích người dân khai thác nguồn nước ngầm tập trung, hạn chế khoan giếng để tránh tình trạng thất thoát, gây ô nhiễm nguồn nước ngầm.
Số liệu điều tra cơ bản ở mức sơ bộ tỉ lệ 1/200.000 cho thấy, nguồn nước ngầm tại Đồng bằng sông Cửu Long phân bố trong 8 tầng chứa nước với các độ sâu từ vài chục đến 500m. Trữ lượng nước có thể khai thác được ở mức an toàn khoảng trên 4,5 triệu m3/ngày. Hiện trữ lượng đang được khai thác 1,9 triệu m3/ngày. Như vậy trữ lượng còn có thể khai thác khoảng hơn 2 triệu m3/ngày. Kể cả tỉnh bị hạn mặn nặng nhất là Bến Tre vẫn có thể khai thác nước ngầm ở tầng chứa nước sâu từ 400-500m phục vụ nhu cầu ăn uống sinh hoạt. Thời gian thi công từ 1 đến 3 tháng có thể hoàn thành một công trình hay cụm công trình khai thác nước dưới đất.
Theo đó, Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Nam đang hỗ trợ các địa phương khoan những lỗ khoan sâu. Mặc dù chi phí lớn nhưng lưu lượng nước cho mỗi lỗ khoan rất cao, từ 1.000-3.000 m3/ngày nên một hoặc vài lỗ khoan có thể xây dựng được 1 nhà máy nước để cấp nước cho 1 cụm dân cư hoặc khu vực.
Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia cũng chỉ đạo Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Nam, nhanh chóng cùng với địa phương lựa chọn các vùng có nhu cầu cấp bách nhất về nước sinh hoạt tại các tỉnh bị xâm nhập mặn, để tiến hành khoan thăm dò và kết cấu thành các giếng khoan khai thác phục vụ nhu cầu về nguồn nước ngọt cho địa phương.
Tuy nhiên, muốn tìm ra các nguồn nước ngầm có giá trị để cung cấp cho nhu cầu chống hạn trước mắt nhưng hiệu quả lâu dài, phải xây dựng hệ thống cấp nước cho các điểm tập trung dân cư nhằm vận hành và quản lý lâu dài. Trong đó phải đảm bảo nguyên tắc phát triển bền vững, sử dụng mô hình công nghệ phù hợp với trình độ quản lý của nhân dân, đồng thời phải giải quyết những vấn đề “hậu đầu tư”.
Chính vì lẽ đó, các đơn vị của Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Nam đang tiến hành khảo sát tại các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Hiện công tác thi công đã diễn ra ở tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau, dự kiến vào cuối tháng 4 này sẽ có 4 cụm công trình cấp nước tập trung với công suất lớn, từ 1.000-3.000m3/ngày. Các cụm công trình có thể cấp nước tại chỗ cho những vùng đang khan hiếm nước, đồng thời trung chuyển nước cho các vùng lân cận, phục vụ nhu cầu ăn uống, sinh hoạt.
Theo chỉ đạo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, trung tâm cũng đã cung cấp các bản đồ phân bố nước ngọt của từng tầng chứa nước, ở các độ sâu khác nhau; các tài liệu về kết quả điều tra, đánh giá nguồn nước dưới đất trên địa bàn và thống kê chiều sâu phân bố theo từng tỉnh để Bộ gửi UBND các tỉnh và thành phố Đồng bằng sông Cửu Long.
Qua khảo sát, người dân nơi đây mới chỉ khai thác được ở các tầng chứa nước có độ sâu không lớn. Mặt khác, do chưa có quy hoạch tài nguyên nước nên việc khai thác phần lớn tự phát, nhiều khu vực phân bố mật độ giếng quá dày, lưu lượng vượt quá khả năng bổ cập của tầng chứa nước nên đã xảy ra hàng loạt các tác động tiêu cực do khai thác như cạn kiệt cục bộ, gia tăng quá trình ô nhiễm trên bề mặt, gia tăng quá trình nhiễm mặn, sụt lún nền đất.
Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Nam đang hỗ trợ các địa phương khoan những lỗ khoan sâu. Để quản lý tài nguyên nước ngầm hiệu quả và phục vụ cho nhu cầu an ninh chính trị, an ninh quốc phòng, trong thời gian tới Bộ Tài nguyên và Môi trường cần triển khai lập quy hoạch tài nguyên nước vùng Đồng bằng sông Cửu Long, làm căn cứ để phân bổ nước ngầm sử dụng cho hợp lý. Khi có quy hoạch, để có thể khai thác bền vững và tìm ra những nguồn nước ngọt có giá trị, cần đầu tư điều tra, tìm kiếm nguồn nước ngầm phục vụ nhu cầu dự phòng, cũng như nhu cầu chiến lược nhằm đảm bảo ninh nguồn nước trong mọi điều kiện, nhất là khi khí hậu bất thường, nguồn nước mặt và nước mưa không đảm bảo.