Giá lúa thường tại ruộng cao nhất là 6.550 đồng/kg, giá bình quân là 6.450 đồng/kg, giảm 43 đồng/kg. Trong khi đó, giá lúa thường tại kho lại tăng trung bình 92 đồng/kg, ở mức 7.742 đồng/kg; giá cao nhất là 7.950 đồng/kg.
Giá các mặt hàng gạo có sự có sự giảm nhẹ. Theo đó, gạo 5% tấm có giá cao nhất 11.300 đồng/kg, giá bình quân 11.350 đồng/kg, giảm 93 đồng/kg. Gạo 15% tấm có giá cao nhất 11.100 đồng/kg, giá bình quân 10.983 đồng/kg, giảm 92 đồng/kg. Gạo 25% tấm có giá cao nhất 10.900 đồng/kg, giá bình quân 10.742 đồng/kg, giảm 75 đồng/kg. Gạo xát trắng loại 1 giảm mạnh 500 đồng/kg, giá trung bình là 11.350 đồng/kg.
Số liệu từ Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn cho thấy, tại Cần Thơ, giá lúa tiếp tục duy trì ổn định ở một số như: IR 50404 là 6.800 đồng/kg, Jasmine là 7.600 đồng/kg; OM 4218 là 7.500 đồng/kg.
Tại Kiên Giang, giá lúa đi ngang ở hầu hết các loại như: IR 50404 ở mức 6.500 đồng/kg; OM 5451 là 6.700 đồng/kg; Jasmine là 7.000 đồng/kg.
Giá lúa tại Tiền Giang không có sự thay đổi nhiều như: IR 50404 ở mức 6.600 đồng/kg; OC10 ở mức 6.800 đồng/kg; Jasmine là 7.200 đồng/kg.
Giá lúa ST tại Bến Tre vẫn ở mức 7.800 đồng/kg; OM 4900 ở Trà Vinh là 7.200 đồng/kg.
Tại Sóc Trăng, giá lúa cũng không có sự biến động so với tuần trước như Đài thơm 8 là 8.100 đồng/kg, OM 5451 là 7.900 đồng/kg; RVT ổn định ở mức 8.300 đồng/kg.
Giá lúa ở Hậu Giang không có sự thay đổi so với tuần trước, như: IR 50404 là 7.300 đồng/kg, OM 18 là 7.800 đồng/kg, RVT là 8.500 đồng/kg.
Còn tại An Giang, theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang, hầu hết các loại lúa duy trì ổn đinh. Giá lúa OM 18 là 6.800 đồng/kg; Đài thơm 8 từ 6.800 - 7.000 đồng/kg; OM 5451 từ 6.400 - 6.500 đồng/kg; Nàng hoa 9 từ 6.600 - 6.800 đồng/kg; IR 50404 từ 6.200 - 6.400 đồng/kg.
Lúa nếp khô tại An Giang có giá từ 8.200 - 8.400 đồng/kg; nếp Long An khô từ 8.600 - 8.800 đồng/kg.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính đến trung tuần tháng 5 sản lượng ước trên diện tích thu hoạch đạt trên 17,5 triệu tấn, bằng 100,7% so với cùng kỳ; năng suất bình quân đạt 67,4 tạ/ha, tăng 1,5% so với cùng kỳ.
Các địa phương phía Nam gieo cấy được 1.142.100 ha lúa Hè Thu, bằng 98% cùng kỳ năm trước; trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.030.700 ha, bằng 98% cùng kỳ năm trước. Một số tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long như: Long An, Đồng Tháp… đã bắt đầu thu hoạch trà sớm.
Về xuất khẩu, gạo Việt Nam 5% tấm được chào ở mức từ 490 - 495 USD/tấn, không đổi so với một tuần trước. Đây là mức giá bán cao nhất của gạo Việt Nam kể từ cuối tháng 4/2023. Một thương nhân tại thành phố Hồ Chí Minh cho biết các giao dịch có phần trầm lắng hơn do một số khách hàng đang dừng mua vì giá cao.
Xuất khẩu gạo của Việt Nam trong 5 tháng đầu năm nay ước tăng khoảng 40,8% so với cùng cùng kỳ năm trước, đạt 3,9 triệu tấn; trong đó riêng tháng 5/2023, lượng gạo xuất khẩu ước khoảng 1 triệu tấn.
Tương tự với gạo Việt Nam, giá gạo Thái Lan 5% tấm đứng ở mức 495 USD/tấn, gần như không đổi so với mức từ 495 - 500 USD/tấn của tuần trước, trong bối cảnh nhu cầu giảm và đồng baht yếu đi.
Trong khi đó, giá gạo xuất khẩu của Ấn Độ trong tuần qua đã rời khỏi mức thấp nhất trong gần 6 tháng, nhờ mức giá cạnh tranh hơn các đối thủ, thu hút người mua từ các nước châu Á khác.
Tuần này, gạo đồ 5% tấm của Ấn Độ được các thương nhân chào bán với giá từ 375 - 380 USD/tấn, cao hơn so với mức từ 374 - 378 USD/ tấn của tuần trước. Nhà xuất khẩu có trụ sở tại Kakinada, bang Andhra Pradesh cho biết, hoạt động mua vào từ các nước châu Á đã được cải thiện một phần nhờ giá thấp. Tuy nhiên, nhiều người mua lớn hiện vẫn chưa quay lại thị trường. Bangladesh, quốc gia thường nhập khẩu gạo Ấn Độ để đối phó với tình trạng thiếu hụt lương thực do thiên tai, hiện không cần nhập khẩu gạo trong năm nay nhờ có một vụ mùa bội thu.
Về thị trường nông sản Mỹ, đóng cửa phiên 2/6 trên Sàn giao dịch hàng hóa Chicago (CBOT), giá các mặt hàng nông sản chủ lực đều tăng. Cụ thể, giá ngô tăng 15 xu Mỹ lên 6,08 USD/bushel, mức đóng cửa cao nhất trong 5 tuần qua. Giá đậu tương tăng 23 xu Mỹ, lên 13,52 USD/bushel (1 bushel lúa mì/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).
Báo cáo chuyên về thị trường nông nghiệp của Mỹ Brock Report cho biết, tình trạng khô hạn tại khu vực Trung Tây có thể được cải thiện nhờ khí hậu mát mẻ hơn. Theo bà Naomi Blohm, cố vấn thị trường cấp cao của Total Farm Marketing, xu hướng giao dịch của tuần tới sẽ dựa trên dự báo thời tiết vào tối 4/6.
Chuyên gia Arlan Suderman của công ty StoneX nhận định, những vướng mắc xung quanh thỏa thuận ngũ cốc Biển Đen có thể tạo ra một số rủi ro dài hạn đối với các thị trường, nhưng không phải là vấn đề trọng tâm ở thời điểm hiện nay. Một lượng lớn lúa mỳ giá rẻ của Nga hiện vẫn đang có sẵn trên thị trường thế giới, cũng như vụ ngô bội thu của Brazil sắp được thu hoạch.
Về thị trường cà phê thế giới, kết thúc phiên giao dịch ngày 2/6, giá cà phê Robusta trên sàn ICE Europe - – London đảo chiều đi xuống. Giá cà phê Robusta giao tháng 7 giảm 30 USD, xuống 2.575 USD/tấn và cà phê Robusta giao tháng 9 giảm 25 USD, còn 2.542 USD/ tấn. Tuy nhiên, khối lượng giao dịch được duy trì khá cao, trên mức trung bình.
Tương tự, giá cà phê Arabica trên sàn ICE US - New York cũng đảo chiều sụt giảm. Giá cà phê Arabica giao tháng 7 giảm 2,75 xu Mỹ, xuống 180,30 xu Mỹ/lb và giá cà phê Arabica giao tháng 9 giảm 2,55 xu Mỹ, còn 177,70 xu Mỹ/lb (1lb = 0,45 kg).
Giá cà phê nhân xô tại các tỉnh Tây nguyên giảm 400 - 500 đồng, dao động trong quãng 60.700 - 61.200 đồng/kg. Giá cà phê kỳ hạn đảo chiều sụt giảm khi USDX (chỉ số đo lường sức mạnh của đồng USD) tăng mạnh trở lại, giúp thu hút dòng vốn đầu cơ chuyển về các sàn chứng khoán, dầu thô và nhiều hàng hóa khác, khiến mặt hàng cà phê và vàng không nhận được nhiều sự chú ý.
Theo các nhà quan sát, sự tăng giá của đồng bạc xanh khiến các loại tiền tệ mới nổi mất giá, đã kích thích các quỹ và nhà đầu cơ cà phê thanh lý, chốt lời sau khi đã mua vào rất mạnh trước đó. Hiện các nhà đầu tư Phố Wall đang chờ đợi quyết sách của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) với kỳ vọng lãi suất sẽ được giữ nguyên.