Ứng dụng công nghệ nuôi trồng hải sản bền vững - Bài 1: Xu hướng phát triển tất yếu

Các nhà kinh tế học và hải dương học đều có chung nhận định: Nuôi biển xa bờ là xu hướng phát triển tất yếu trên thế giới, trong đó có Việt Nam, vì có khả năng tạo ra đột phá về kinh tế làm giàu bền vững từ biển, nếu ứng dụng công nghệ cao trong nuôi biển.

Chú thích ảnh
Nuôi cá lồng bè tại Kiên Giang. Ảnh: Duy Khương/TTXVN

Cung - cầu hải sản ngày càng gay gắt

Theo nhận định của FAO (Tổ chức Lương thực thế giới), do dân số thế giới ngày càng tăng nhanh, nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm hải sản đang tăng cao và rất đa dạng, khiến cho mâu thuẫn cung-cầu về hải sản trên thị trường thế giới ngày càng trở nên gay gắt.

Dự báo đến năm 2030 thế giới cần thêm 19 triệu tấn hải sản so với 2015 mới bảo đảm nhu cầu dinh dưỡng; năm 2050 thị trường thế giới cần sản lượng đạm động vật gấp 1,7 lần hiện nay, trong đó nguồn cung cấp chính là nuôi trồng hải sản từ đại dương.

Trong giai đoạn 2004 - 2008, mới có 93/165 quốc gia và vùng lãnh thổ có biển tiến hành hoạt động nuôi biển, với sản lượng trung bình hàng năm là 29.976.736 tấn. Tuy vậy, gần như toàn bộ hoạt động nuôi biển hiện đang diễn ra ở những khu vực tương đối hẹp, kín sóng gió ở gần bờ, nơi diễn ra rất nhiều hoạt động kinh tế, công nghiệp, thương mại, quốc phòng, an ninh (như hàng hải, du lịch, khai thác dầu khí và khoáng sản, các khu bảo tồn biển…). Những hoạt động này mang tính mâu thuẫn, cạnh tranh, xung đột với nuôi biển, làm giảm đi đáng kể diện tích ven bờ dành cho nuôi biển.

Tiềm năng rất lớn

Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam (VSA) cho rằng, so với nuôi động vật trên cạn, nuôi biển được đánh giá cao hơn về hiệu quả kinh tế - môi trường, do có năng suất cao hơn, hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) thấp hơn (FCR của cá biển sử dụng thức ăn viên chỉ từ 1 - 2,5, trong khi động vật trên cạn 4 - 8), lại ít gây tác hại tới môi trường. Ngoài cá, có thể phát triển nuôi với sản lượng rất lớn những loài thủy sản ăn lọc, tận dụng thức ăn tự nhiên, như các động vật thân mềm (hàu, vẹm, nghêu, sò, trai, ốc,…).

Riêng trồng rong biển có thể đạt 400 kg protein/ha/năm (so với trồng cây trên đất chỉ thu 16 kg/ha/năm) mà không hề tốn phân, thuốc bảo vệ thực vật và nước tưới, lại có tác dụng rất lớn làm giảm CO2 và hấp thu các tác nhân gây ô nhiễm khác trong khí quyển và đại dương.

Tiềm năng nuôi biển xa bờ là diện tích bề mặt biển nằm trong vùng EEZ (tức ở khoảng cách từ 3 đến 200 hải lý tính từ bờ), đáp ứng được các ngưỡng giới hạn về độ sâu, tốc độ dòng chảy và chi phí hiệu quả thích hợp với các phương pháp nuôi. Với các công nghệ nuôi biển hiện nay, khu vực đáp ứng được đầy đủ các tiêu chí nói trên thường chỉ chiếm 0,1% tổng diện tích EEZ.

Kết quả đánh giá tiềm năng nuôi biển toàn cầu và nhiều quốc gia cho thấy, tiềm năng nuôi biển xa bờ là rất lớn, ngay cả với trình độ công nghệ hiện tại. Đặc biệt, với 2 đa dạng sinh học, tiềm năng nuôi biển xa bờ đối với các loài hải sản vùng nước cận nhiệt đới và nhiệt đới lớn hơn hẳn vùng nước ôn đới.

Ngay cả với diện tích rất nhỏ cũng có thể đóng góp bền vững vào việc tăng sản lượng thực phẩm cho nhân loại. Năng suất nuôi cá biển như cá chim, cá vược, cá hồng Mỹ, cá giò ở vùng nhiệt đới hiện tại khoảng 9.900 - 12.000 tấn/km2.

Bài 2: Lợi thế biển Việt Nam và những thách thức

Văn Hào (TTXVN)
Ứng dụng công nghệ nuôi trồng hải sản bền vững - Bài cuối: Những mục tiêu sẽ hướng tới
Ứng dụng công nghệ nuôi trồng hải sản bền vững - Bài cuối: Những mục tiêu sẽ hướng tới

Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam (VSA) khẳng định, cộng đồng 180 doanh nghiệp, các tổ chức khoa học công nghệ, các nhà khoa học và chuyên gia thành viên của VSA nhận thức rằng, Việt Nam đang đứng trước thời cơ vàng để phát triển nuôi biển công nghiệp, tiến ra làm chủ vùng đặc quyền kinh tế rộng gấp 3 diện tích đất liền, làm giàu cho Tổ quốc.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN