Hai yếu tố thượng lưu có ảnh hưởng quan trọng đến diễn biến nguồn nước, xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long là lượng trữ trong Biển Hồ (Tonle Sap) và dòng chảy đến Kratie ở Campuchia.
Cuối tuần qua, mực nước tại Kratie ở mức 8,10m, cao hơn mực nước trung bình nhiều năm 1,82m; cao hơn mùa khô 2015-2016, 2017-2018, 2019-2020 và 2020-2021 lần lượt là 0,78m, 0,4m, 1,01m và 0,6m.
Còn dung tích hồ Tonle Sap hiện còn lại khoảng 2,21 tỷ m3, cao hơn dung tích trung bình nhiều năm 0,32 tỷ m3. Dung tích của Biển Hồ cao hơn mùa khô 2015-2016, 2017-2018, 2019-2020 và 2020-2021 lần lượt là 0,79 tỷ m3, 0,23 tỷ m3, 0,79 tỷ m3 và 0,47 tỷ m3.
Tại trạm Chiang Saen (Thái Lan), mực nước đạt 2,74m, cao hơn trung bình nhiều năm 1,21m…
Trong khi đó, tại Việt Nam, mực nước tại trạm Tân Châu trên sông Tiền đạt 1,16m, cao hơn trung bình nhiều năm 0,06m và cao hơn những năm gần đây cùng thời điểm. Tại trạm Châu Đốc trên sông Hậu, mực nước đạt 1,36m, cao hơn trung bình nhiều năm 0,12m và cao hơn mấy năm gần đây cùng thời điểm. Dự báo xu thế mực nước đầu nguồn Đồng bằng sông Cửu Long sẽ tăng trong thời gian tới.
Dòng chảy về châu thổ sông Mê Kông phụ thuộc vào điều tiết thủy điện. Trong tuần thứ 2 của tháng 4/2022, xả nước từ thủy điện Cảnh Hồng (Trung Quốc) xuống hạ lưu dao động trong khoảng từ 1.123 m3/s đến 1.916 m3/s. Mực nước tại thủy điện Cảnh Hồng ở mức 536,46m, tương ứng với lưu lượng khoảng 1.332 m3/s.
Các hồ chứa trên lưu vực sông Mekong còn dung tích điều tiết bình quân vào khoảng 43,8%, tương đương với tổng dung tích còn khoảng 28,7 tỷ m3.
Dự báo dòng chảy bình quân về Đồng bằng sông Cửu Long từ tháng 4 đến cuối mùa khô ở mức cao hơn trung bình nhiều năm, ảnh hưởng của xả nước gia tăng từ thủy điện Trung Quốc và hạ lưu vực Mê Kông sẽ có tác động tích cực, giảm xâm nhập mặn ở các tháng 4 và 5 nếu không có gì bất thường từ vận hành xả nước ở các thủy điện.
Cụ thể, dự báo lưu lượng dòng chảy từ Kratie về Đồng bằng sông Cửu Long tháng 4/2022 đạt 4.730 m3/giây, cao hơn 2.739 m3/giây so với trung bình nhiều năm và cao hơn 5/6 mùa khô gần đây (từ mùa khô 2015-2016 đến nay), chỉ thấp hơn năm 2018-2019 nhưng không đáng kể.
Đến tháng 5/2022, dự báo dòng chảy từ Kratie về Đồng bằng sông Cửu Long đạt 5.000 m3/giây, cao hơn 1.708 m3/giây so với trung bình nhiều năm và cao hơn các mùa khô 2015-2016, 2018-2019, 2019-2020; tương đương mùa khô 2020-2021.
Trong tuần qua, mưa xuất hiện nhiều nơi tại Đồng bằng sông Cửu Long với lượng bình quân khoảng 20-40mm, có nơi trên 100mm như ở Bạc Liêu, Cà Mau. Dự báo tuần tới, tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long sẽ tiếp tục có mưa xuất hiện trên diện rộng với lượng vào khoảng 30-50mm.
Từ tháng 3/2022 đến nay, mặc dù chưa hết mùa khô nhưng tại Đồng bằng sông Cửu Long đã xuất hiện nhiều đợt mưa lớn. Tại thành phố Cần Thơ, từ giữa tháng 3 đến nay đã xuất hiện nhiều trận mưa to đến rất to.
Viện Khoa học thủy lợi miền Nam dự báo xâm nhập mặn lớn nhất trong tháng 4 với ranh mặn 1g/l trên sông Tiền 40-50 km, sông Hàm Luông 50-60 km, trên hệ thống sông Vàm Cỏ mặn vào sâu 65-75 km, các cửa sông khác 40-50 km. Riêng khu vực ven biển Tây, hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé đi vào hoạt động nên đã chủ động kiểm soát được xâm nhập mặn.
Ở các tỉnh ven biển Đồng bằng sông Cửu Long như Long An, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang, cơ quan chuyên môn dự báo xâm nhập mặn bất thường có thể xảy ra ở các vùng chưa có kiểm soát triệt để. Vì vậy, cần tăng cường công tác giám sát mặn và kiểm tra độ mặn trước khi lấy nước.
Theo Viện Khoa học thủy lợi miền Nam, nguồn nước cho sản xuất ở mùa kiệt năm nay hiện ở mức thuận lợi hơn với năm 2020-2021. Xâm nhập mặn ở tháng 4 có xu thế giảm dần. Tuy vậy, các khu vực ven biển, cửa sông vẫn còn ảnh hưởng của xâm nhập mặn, nhất là vào những ngày triều cao. Để phòng tránh các thiệt hại do hạn mặn gây ra, các địa phương cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý chuyên ngành về lịch mùa vụ, cơ cấu cây trồng. Đối với các vùng cách biển 30-35 km nên chờ nguồn nước ngọt trên sông ổn định hoặc mưa diện rộng mới xuống giống vụ Hè Thu tiếp theo.