Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết Việt Nam có lượng mưa, lượng nước chảy bao gồm nước nội địa và nước quốc tế khá phong phú nhưng hơn 63% lượng nước là từ nguồn nước xuyên biên giới chảy vào. Theo Bộ trưởng, tỷ lệ người dân được sử dụng nguồn nước nội địa thấp hơn trung bình với thế giới. Tác động kép của biến đổi khí hậu làm cho việc phân bổ nước không đều theo địa lý, theo mùa. Bên cạnh đó là những đòi hỏi thay đổi cơ cấu phát triển kinh tế để đảm bảo tính bền vững ở đồng bằng sông Cửu Long.
Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho thấy, thể chế về nước của Việt Nam còn có vấn đề, chưa chặt chẽ, chưa có đầu tư về hạ tầng, chưa có chính sách kinh tế - tài chính. Hiện, 80% lượng nước sử dụng dùng cho nông nghiệp. Trong khi đó, hiệu quả sử dụng trên một đơn vị m3 mới có 2,37 USD, trong khi thế giới là 19,57 USD, ở Lào là 2,57 USD. Do vậy, Việt Nam cần phải làm rất nhiều biện pháp để nâng hiệu quả sử dụng nước ở khu vực này.
Các quốc gia thượng nguồn chiếm đến 20%, trữ lượng nước thông qua các hồ thủy điện và hồ chứa. Họ có thể giữ lại được lượng như vậy. Chúng ta mất 70% - 80% lượng nước do biến đổi khí hậu, như vậy chỉ còn khoảng 20%-30% về giới hạn nguồn. Nếu họ giữ lại 20%, chúng ta hoàn toàn bất ổn và mất an ninh liên quan đến nguồn nước - Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết.
Bộ trưởng Trần Hồng Hà cũng cho hay, để bảo đảm an ninh tài nguyên nước cần xem xét lại thể chế để xác định rõ hơn trách nhiệm quản lý nhà nước. Làm rõ vấn đề nguồn lực đầu tư cho hạ tầng, quan trắc, dữ liệu, quy hoạch. Đồng thời, cần làm tốt cơ chế phối hợp với các nước có liên quan, như ở lưu vực sông Mê Kông và có thể chế chung để các nước cùng tham gia phù hợp với quốc tế.
“Chúng ta làm tốt cơ chế phối hợp với các nước có liên quan, đặc biệt là đưa những vấn đề nước lưu vực sông như sông Mê Kông, sông Lan Thương lên quốc tế hóa. Nhiều thiết chế chúng ta phải cùng với các nước vận động để tham gia vào thiết chế chung của quốc tế”- Bộ trưởng Trần Hồng Hà nói.
Về tài nguyên đất, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho hay, xuất phát từ 7 vấn đề vướng mắc, khó khăn nên Chính phủ trong đó có Bộ Tài nguyên và Môi trường đề xuất sửa đổi một số luật. Đến nay, hầu hết các chủ trương, vướng mắc đã được tiếp thu, sửa đổi ngay trong luật như Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư và có Nghị quyết số 60 của Quốc hội về đẩy mạnh quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp. Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng Ban Kinh tế Trung ương đã sơ kết Nghị quyết 19 về đất đai và đưa ra nhiều cơ chế về chính sách, quản lý. Bộ Chính trị đã có Kết luận 36 khẳng định tiếp tục nghiên cứu sửa đổi toàn diện chính sách, pháp luật.
Việc sửa đổi ở đây liên quan đến rất nhiều đối tượng cần phải làm hết sức thận trọng, kỹ lưỡng, toàn diện từ vấn đề lý luận thực tiễn và đặc biệt chú ý hơn 60% những người đang sử dụng đất, đây là những người nông dân, nông thôn và nhiều vấn đề hệ trọng quan trọng khác thì cần phải tổng kết cả lý luận và thực tiễn.
Khi có Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương về đất đai giai đoạn 2021 - 2030, khi đó Chính phủ sẽ có ngay trên bàn dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) - Bộ trưởng Trần Hồng Hà khẳng định.
Về bảo vệ môi trường, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết, nhiều đại biểu Quốc hội, nhà khoa học và nhân dân đánh giá, Chính phủ đã nhận diện, xác định và trình Quốc hội sửa đổi toàn diện Luật Bảo vệ môi trường, bảo đảm người dân được sống trong môi trường trong lành. Quan điểm, chủ trương chỉ đạo chung đầu tư cho môi trường là đầu tư cho phát triển và không hy sinh môi trường vì kinh tế. Dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) đã có nhiều vấn đề rất cụ thể, sát sườn như: xử lý nước thải, nước sinh hoạt… Dự thảo Luật đưa ra quan điểm người gây ô nhiễm phải trả tiền.
Cùng với đó, Nhà nước cam kết đầu tư vào môi trường; nhân dân là trung tâm triển khai thực hiện trong đó có vai trò giám sát; coi rác thải là tài nguyên với hơn 40% tái chế sử dụng. Việc sử dụng này, Chính phủ cũng hết sức cẩn trọng và có lộ trình.