Mô hình nuôi lươn không bùn đem lại hiệu quả kinh tế cao ở Cần Thơ.
Nghề nuôi lươn tại Cần Thơ đã có từ lâu đời, tuy nhiên chủ yếu theo phương pháp truyền thống trong ao bùn và sử dụng con giống tự nhiên. Khoảng một thập kỷ trở lại đây, đặc biệt phát triển mạnh mẽ từ năm 2017, mô hình nuôi lươn không bùn bắt đầu xuất hiện và dần trở nên thịnh hành.
Điển hình là trường hợp của ông Trần Trung Tri ở xã Tân Hòa (TP cần Thơ). Ban đầu, ông chỉ nuôi thử nghiệm 3.000 con giống trong bể lót bạt, sử dụng dây nhựa làm giá thể cho lươn trú ẩn. Sau 9 tháng, ông thu hoạch gần 1 tấn lươn thương phẩm, bán với giá 160.000 đồng/kg. Sau khi trừ đi chi phí, ông lãi khoảng 70 triệu đồng.
Ưu điểm nuôi lươn không cần bùn là kỹ thuật nuôi đơn giản và tận dụng được không gian hẹp.
Thành công bước đầu đã tạo động lực để ông Tri mạnh dạn đầu tư, mở rộng quy mô lên hơn 40 m2 với hệ thống bể bê tông kiên cố, nâng số lượng lươn mỗi lứa lên từ 25.000 - 30.000 con.
Ông Tri chia sẻ: “Với 25.000 con lươn đang nuôi, tôi dự kiến xuất bán vào tháng 11 tới. Nếu giá bán duy trì trên 90.000 đồng/kg, trừ chi phí khoảng 40.000 đồng mỗi ký, tôi có thể lãi khoảng 300 triệu đồng. Tỷ suất lợi nhuận là một lời một”.
Thấy được tiềm năng kinh tế rõ rệt, mô hình nuôi lươn không bùn đã nhanh chóng lan rộng ra nhiều hộ gia đình khác tại xã Tân Hòa (TP Cần Thơ). Bà Đặng Thị Thu Phượng đã quyết định vay vốn từ Ngân hàng Chính sách xã hội để đầu tư xây bể, khoan giếng, đảm bảo nguồn nước sạch cho việc nuôi lươn. Đến nay, gia đình bà Phượng đã trở thành một trong những hộ có quy mô lớn tại địa phương, với diện tích nuôi hơn 200 m2, cung cấp ra thị trường khoảng 100.000 con lươn mỗi năm.
Bà Đặng Thị Thu Phượng, xã Tân Hòa (TP Cần Thơ) là một trong những hộ nuôi lươn không bùn với quy mô lớn trong xã.
Bà Phượng cho biết: “Kỹ thuật nuôi lươn khá đơn giản, nhưng đòi hỏi sự tuân thủ nghiêm ngặt về thời gian chăm sóc, cho ăn và thay nước. Mỗi ngày phải cho lươn ăn 2 lần và thay nước 3 lần, không được bỏ cữ. Nếu không đảm bảo, chất lượng nước sẽ bị ảnh hưởng, gây nguy hiểm trực tiếp đến sự phát triển của đàn lươn”.
Hiện tại, toàn TP Cần Thơ có khoảng 1.900 hộ theo đuổi mô hình này, chủ yếu ở quy mô nông hộ. Đặc điểm chung của hình thức này là nuôi trong bể lót bạt hoặc xi măng, không sử dụng bùn, mật độ nuôi dao động từ 250 - 500 con/m2, sử dụng con giống nhân tạo và thức ăn công nghiệp.
Mô hình nuôi lươn không bùn đem lại hiệu quá kinh tế cao cho người nuôi.
Riêng tại xã Tân Hòa đã có khoảng 35 hộ nuôi với tổng số lượng lên đến hơn 500.000 con. Để hỗ trợ nhau phát triển, địa phương đã thành lập 1 hợp tác xã và 1 tổ hợp tác chuyên về nuôi lươn không bùn.
Ông Nguyễn Vĩnh Thọ, Chủ tịch Hội Nông dân xã Tân Hòa nhận định: “Ưu điểm vượt trội của mô hình này là giúp kiểm soát tốt nguồn nước và dịch bệnh so với cách nuôi trong bể đất truyền thống. Nuôi lươn không bùn không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cao mà còn giúp người dân tận dụng thời gian nhàn rỗi và không gian hẹp để gia tăng thu nhập”.
Để hỗ trợ người dân phát triển mô hình, nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng đóng vai trò quan trọng. Phòng Giao dịch Ngân hàng Chính sách Xã hội Châu Thành A hiện đang đồng hành cùng 135 khách hàng vay vốn nuôi lươn, với tổng dư nợ đạt trên 8 tỷ đồng.
Các ngành chức năng khuyến khích người nuôi thực hiện liên kết theo chuỗi giá trị và kết nối với thị trường tiêu thụ để đảm bảo đầu ra ổn định và gia tăng giá trị.
Ông Nguyễn Văn Vũ, Giám đốc Phòng Giao dịch Ngân hàng Chính sách Xã hội Châu Thành A (TP Cần Thơ) thông tin: “Chúng tôi đã thành lập các tổ hợp tác lồng ghép trong các tổ tiết kiệm và vay vốn, bao gồm nhiều thành phần như hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và các gia đình chính sách. Mỗi tổ hợp tác sẽ xây dựng một mô hình kinh tế riêng, trong đó có mô hình nuôi lươn không bùn đang rất hiệu quả”.
Nuôi lươn không bùn hiện được xác định là một trong những sản phẩm chủ lực của ngành thủy sản Cần Thơ, đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng của khu vực kinh tế I. Để nghề nuôi phát triển bền vững, các cơ quan chức năng đang khuyến khích nông dân tăng cường liên kết theo chuỗi giá trị, kết nối chặt chẽ với thị trường để đảm bảo đầu ra ổn định và nâng cao giá trị sản phẩm.