Sản phẩm gỗ “Made in Viet Nam” sẽ được tiếp cận thị trường EU với mức thuế ưu đãi hơn các đối thủ cạnh tranh. Với chất lượng đã được khẳng định, mức thuế ưu đãi sẽ giúp ngành gỗ Việt Nam có được nhiều đơn hàng hơn.
Theo đó, các sản phẩm như ván dán, ván găm đang có thuế suất là 7% sẽ giảm về mức 0% sau 5 năm. Còn với gỗ thanh đang có mức thuế là 3-4% và đồ gỗ dùng cho nhà bếp mức thuế là 2% sẽ được xóa bỏ ngay khi hiệp định này có hiệu lực.
EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ 5 của gỗ và sản phẩm gỗ Việt Nam. Thời gian gần đây, xuất khẩu sản phẩm gỗ sang thị trường EU luôn chiếm tỷ trọng từ 13-17% tổng kim ngạch thương mại đồ gỗ. Giá trị xuất khẩu sang EU luôn duy trì ổn định và tăng nhẹ. Trong khối này, Anh là quốc gia nhập khẩu gỗ và sản phẩm lớn nhất. Năm 2018, xuất khẩu vào quốc gia này chiếm 36,2%, đạt kim ngạch 289 triệu USD, tiếp đến là Pháp, Đức, Hà Lan…
Để đảm bảo về các quy tắc xuất xứ, phát triển bền vững… khi xuất khẩu vào thị trường EU, các mặt hàng gỗ đã có Hiệp định Đối tác tự nguyện về thực thi luật lâm nghiệp, quản trị rừng và thương mại lâm sản (VPA/FLEGT) mới có hiệu lực từ 1/6/2019.
Bởi VPA/FLEGT là một tín hiệu mạnh mẽ về cam kết của Việt Nam và EU đối với việc thúc đẩy thực hiện Chương “Thương mại và phát triển bền vững” của Hiệp định EVFTA.
Thực thi VPA/FLEGT sẽ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy thương mại gỗ và sản phẩm gỗ giữa Việt Nam và EU, cũng như hướng đến một thị trường gỗ minh bạch, hợp pháp và quản lý rừng bền vững.
Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Công Tuấn, khi EVFTA ký kết thành công thì các doanh nghiệp gỗ Việt Nam cũng sẽ không lo lắng hay bất ngờ về các điều khoản liên quan đến xuất xứ của mặt hàng gỗ. Vì, VPA/FLEGT đã giải quyết được vấn đề này. Hiệp định này đã khẳng định cam kết và quyết tâm hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện của Việt Nam cũng như mang lại lợi ích cho Việt Nam trên cả 3 lĩnh vực kinh tế - xã hội - môi trường, nổi bật là mở rộng thị trường xuất khẩu. Nhất là cải thiện thể chế về quản lý rừng, giải quyết tình trạng khai thác và thương mại gỗ trái phép, góp phần phát triển bền vững ngành chế biến gỗ xuất khẩu của Việt Nam.
Thực hiện Quy chế gỗ của EU, chỉ có hai trường hợp được miễn trừ là gỗ có giấy phép CITES theo Công ước quốc tế về buôn bán các loại động, thực vật hoang dã nguy cấp và gỗ có giấy phép kiểm soát nguồn gốc gỗ (FLEGT) dành cho các quốc gia đã đàm phán và ký Hiệp định VPA/FLEGT với EU.
Theo ông Nguyễn Quốc Trị, Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp, Việt Nam đang nỗ lực nhanh chóng xây dựng và vận hành hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp Việt Nam (VNTLAS) nhằm đảm bảo gỗ và sản phẩm gỗ xuất khẩu của Việt Nam có nguồn gốc hợp pháp, bao gồm việc xác minh một cách hệ thống để đảm bảo các doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu gỗ được khai thác và mua bán hợp pháp phù hợp với pháp luật của quốc gia khai thác.
Cùng với đó là sẽ có một cơ chế cấp phép FLEGT của hệ thống VNTLAS chính thức hoạt động. Khi có giấy phép FLEGT, khả năng cạnh tranh của sản phẩm gỗ Việt Nam sẽ được nâng cao hơn bởi các doanh nghiệp xuất khẩu vào EU sẽ không phải giải trình về truy xuất nguồn gốc.
EU cũng là một trong những thị trường chính cung cấp nguồn gỗ nguyên liệu cho Việt Nam. Các mặt hàng nhập khẩu chính bao gồm gỗ xẻ, gỗ tròn, veneer. Năm 2018, Việt Nam nhập khẩu 246,47 triệu USD gỗ và sản phẩm gỗ từ EU, tăng 5% so với năm 2017. Trong EU, các quốc gia cung cấp gỗ nguyên liệu lớn cho Việt Nam gồm Bỉ, Đức, Phần Lan, Croatia.
Các loại gỗ nhập khẩu từ EU chủ yếu là gỗ sồi, tần bì, dẻ gai, óc chó… Đây là nguồn cung gỗ hợp pháp lớn thứ hai sau thị trường Mỹ mà Việt Nam đang hướng tới sử dụng nguồn nguyên liệu có nguồn gốc rõ ràng.
Theo ông Nguyễn Tôn Quyền, Phó chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ được lợi từ nguồn hàng hóa, nguyên liệu nhập khẩu từ EU. Đặc biệt, các doanh nghiệp sẽ có cơ hội được tiếp cận với nguồn máy móc, thiết bị, công nghiệp/kỹ thuật cao để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm của mình. Đồng thời, hàng hóa, dịch vụ từ EU nhập khẩu sẽ tạo ra một sức ép cạnh tranh để doanh nghiệp Việt Nam nỗ lực cải thiện năng lực cạnh tranh của mình.
Đây là cơ hội vàng cho doanh nghiệp gỗ Việt Nam phát triển sản xuất kinh doanh với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững. Để tận dụng tốt, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam đề nghị Chính phủ và các bộ, ngành quan tâm và hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp gỗ Việt Nam sẽ tập trung nguồn lực để đổi mới công nghệ, đặc biệt có kế hoạch cụ thể để triển khai khâu thiết kế sản phẩm và xây dựng thương hiệu sản phẩm gỗ Việt Nam.
Các bộ, ngành liên quan cũng sớm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn việc thực hiện các hiệp định EVFTA trong năm 2019 này để giúp cho cộng đồng doanh nghiệp có căn cứ để xây dựng kế hoạch phát triển sản phẩm kinh doanh trong thời gian tới.
Có thể coi EVFTA như là một công cụ quan trọng để nâng cao thương hiệu cho đồ gỗ Việt, cơ hội để các doanh nghiệp sẽ mở rộng thị trường xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam sẽ tăng không chỉ ở các quốc gia trong EU mà còn ở các quốc gia khác. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp chế biến gỗ của Việt Nam sẽ được tiếp cận được công nghệ tiên tiến của EU thay thế cho những công nghệ cũ, lạc hậu.
Tuy nhiên, việc thực thi hiệp định trong thời gian tới còn khó khăn và thách thức hơn nhiều quá trình đàm phán. Với quyết tâm cải cách mạnh mẽ của Chính phủ, cam kết cộng đồng doanh nghiệp và các hộ trồng rừng cùng với sự ủng hộ đồng hành của Liên minh châu Âu… Hiệp định góp phần thúc đẩy thương mại song phương giữa EU và Việt Nam, phát triển bền vững ngành chế biến gỗ Việt Nam
Ông Nguyễn Quốc Trị cho biết, Việt Nam đang nỗ lực hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật nhằm nội luật hóa các cam kết của hiệp định, bao gồm việc xây dựng Nghị định quy định về hệ thống bảo đảm gỗ hợp pháp Việt Nam.
"Hiệp định được đánh giá sẽ góp phần đưa ngành chế biến gỗ xuất khẩu Việt Nam trong 10 năm tới phát triển bền vững, có uy tín và có thương hiệu trên thế giới, trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trong sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam", ông Nguyễn Quốc Trị nhận định.