Tiến sỹ Nguyễn Quang Cung - Chủ tịch Hiệp hội Xi măng Việt Nam cho rằng, chủ trương của Chính phủ theo Quyết định 1469/QÐ-TTg đến năm 2030, xi măng và clinker Việt Nam cần xuất khẩu từ 20% đến 30% tổng công suất mỗi năm nhưng việc tăng chi phí xuất khẩu lại làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm này.
Như vậy, áp lực lực xuất khẩu sẽ dội ngược trở lại tiêu thụ nội địa và nhiều doanh nghiệp xi măng sẽ phải ngừng sản xuất hoặc phá sản có thể xảy ra. Khi đó, cả hai mục đích là tiết kiệm tài nguyên khoáng sản trong xi măng xuất khẩu và tăng thu ngân sách đều không đạt được - ông Cung phân tích.
Năm 2016, tổng công suất thiết kế các dây chuyền sản xuất xi măng của Việt Nam đạt 88 triệu tấn và tiêu thụ ở mức 75 triệu tấn. Tổng công suất thiết kế của Việt Nam đến hết năm 2020 là 93-95 triệu tấn và có thể đạt 130 triệu tấn vào năm 2030.
Thế nhưng, đến hết năm 2018 tiếp tục có thêm 20 triệu tấn xi măng cung ra thị trường đưa nguồn cung sản lượng đến hết năm 2020 đạt con số 108 triệu tấn.
Một góc dây chuyền sản xuất xi măng của Công ty Cổ phần Xi măng La Hiên VVMI. Ảnh: Hoàng Nguyên/TTXVN |
Với đà tăng trưởng được xem là khả quan như hiện nay thì lượng xi măng tiêu thụ mỗi năm cũng chỉ tăng được từ 4 - 6%, tính cả xuất khẩu - tương đương mức tăng 3 - 4,5 triệu tấn/năm. Như vậy, đến năm 2020, mức tiêu thụ dự báo cũng chỉ đạt từ 78-93 triệu tấn và ngành xi măng vẫn thừa 15 triệu tấn so với công suất thiết kế.
Thị trường tiêu thụ xi măng nội địa vẫn tiếp diễn theo quy luật “thừa Bắc thiếu Nam”. Hàng năm, tiêu thụ xi măng tại phía Nam chiếm khoảng 42% thị phần nội địa, tương đương 25 triệu tấn nhưng công suất của các nhà máy và trạm nghiền tại khu vực này chỉ vào khoảng 15 triệu tấn.
Thế nên, việc đánh thuế xuất khẩu sẽ không gây bất lợi cho các doanh nghiệp phía Nam vì chủ yếu là tiêu thụ nội địa. Trong khi đó, sức ép được dự báo sẽ dồn gánh nặng lên các doanh nghiệp sản xuất xi măng phía Bắc và miền Trung kể từ năm 2017 - các chuyên gia cảnh báo.
Đánh giá về tiềm năng xuất khẩu, ông Cung cho hay, Việt Nam không thể cạnh tranh với Trung Quốc, Thái Lan hay ngay như Nhật Bản - một quốc gia mới gia nhập thị trường xuất khẩu xi măng. Trung Quốc hiện đạt tổng công suất thiết kế 2,5 tỷ tấn và từ năm 2014 họ đã dư thừa tới 700 triệu tấn xi măng. Riêng con số dư thừa này đã gấp 10 lần tổng công suất thiết kế của Việt Nam.
Năm 2015, nước láng giềng này vẫn dư thừa khoảng 600 triệu tấn xi măng, gấp 7,5 lần tổng công suất thiết kế của Việt Nam. Để giải quyết sản lượng dư thừa này, Trung Quốc đã đẩy mạnh chính sách xuất khẩu giá rẻ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân có tác động mạnh mẽ đến thị phần trên bản đồ xuất khẩu xi măng và khiến thị trường xuất hàng của Việt Nam bị thu hẹp.
Ngoài Trung Quốc, Việt Nam còn phải cạnh tranh với Ấn Độ và Thái Lan. Nhưng hiện sản lượng xuất khẩu xi măng của Việt Nam sụt giảm rõ rệt, năm 2014 là 20 triệu tấn - đứng nhất nhì thế giới nhưng đến năm 2015 chỉ còn 16,2 triệu tấn và năm 2016 là 15 triệu tấn.
Cùng đó, một số nước trong ASEAN hiện đang tiếp tục đầu tư phát triển xi măng. Đơn cử như trước đây Indonesia là nước nhập khẩu nhiều xi măng, clinker của Việt Nam nhưng nay đã vươn lên xuất khẩu mặt hàng này và dự kiến từ năm 2017 sẽ xuất khẩu trên 3 triệu tấn mỗi năm.
Bức tranh toàn cảnh về hoạt động sản xuất của xi măng đang rơi vào gam màu xám. Theo ông Cung, Hiệp hội đang cùng với doanh nghiệp tìm và áp dụng các giải pháp để giảm tỷ lệ sử dụng tài nguyên khoáng sản trên đầu tấn xi măng để nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm giá thành và tăng đóng góp cho ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này vẫn đang trông đợi được “giãn” thời hạn áp dụng các quy định mới có ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu xi măng.