Trước hết là nhận thức về vai trò, vị trí của biển và kinh tế biển của các cấp, các ngành, các địa phương ven biển và người dân còn chưa đầy đủ. Quy mô kinh tế biển còn nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng, cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý, chưa chuẩn bị điều kiện để vươn ra vùng biển quốc tế.
Mô hình phát triển chưa tương xứng với tiềm năng
Nhận xét về cơ sở hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo hiện nay, Phó Giáo sư Tiến sĩ Chu Hồi, Trường Đại học khoa học tự nhiên Đại học Quốc gia Hà Nội khẳng định vẫn còn yếu kém, lạc hậu, manh mún, thiết bị chưa đồng bộ nên hiệu quả sử dụng thấp. Hội chứng phát triển “tràn lan” các khu kinh tế ven biển đang trở thành hiện hữu ở nước ta, khiến cho đầu tư không tập trung. Trong mô hình phát triển các khu kinh tế ven biển nói riêng và kinh tế biển nói chung thiếu “đầu tàu”; đẳng cấp thể chế và công nghệ chưa tương xứng, còn ở mức thấp so với quốc tế và khu vực.
Hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học-công nghệ biển, đào tạo nguồn nhân lực cho kinh tế biển; các cơ sở quan trắc, dự báo, cảnh báo biển, thiên tai biển, các trung tâm tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn,...ở ven biển còn nhỏ bé, trang bị thô sơ, năng lực yếu kém. Các phương thức quản lý biển mới, tiên tiến còn chậm được nghiên cứu áp dụng như quản lý không gian biển, quy hoạch không gian biển. Đặc biệt ít chú ý nghiên cứu và chuyển giao công nghệ biển tiên tiến.
Tình hình khai thác, sử dụng biển và hải đảo chưa hiệu quả, thiếu bền vững do khai thác tự phát, thiếu/không tuân thủ quy hoạch biển, đảo, làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn lợi ích trong sử dụng đa ngành ở vùng ven biển, biển và hải đảo. Phương thức khai thác biển chủ yếu vẫn dưới hình thức sản xuất và đầu tư nhỏ, sử dụng công nghệ lạc hậu.
Còn nghiêng về ưu tiên khai thác tài nguyên biển ở dạng vật chất, không tái tạo, các giá trị chức năng, phi vật chất và có khả năng tái tạo của các hệ thống tài nguyên biển còn ít được chú trọng, như: giá trị vị thế của các mảng không gian biển, ven biển và hải đảo; giá trị dịch vụ của các hệ sinh thái, thậm chí các giá trị văn hóa biển.
Môi trường biển bị biến đổi theo chiều hướng xấu. Ngày càng nhiều chất thải không qua xử lý từ các lưu vực sông và vùng ven biển đổ ra biển liên quan tới phát triển kinh tế - xã hội. Một số khu biển ven bờ và cửa sông bị ô nhiễm dầu, chất hữu cơ liên quan tới chất thải sinh hoạt và du lịch dẫn đến hiện tượng thuỷ triều đỏ xuất hiện ngày càng nhiều với quy mô rộng, ô nhiễm xyanua liên quan đến tình trạng đánh bắt hải sản, hàm lượng kẽm ở các khu vực đóng và sửa chữa tàu biển thường cao hơn liên quan tới “nhân độc tố kẽm” trong thành phần của sơn chống hà bám tàu thuyền.
Đây là sức ép lớn lên môi trường, hệ sinh thái và tài nguyên biển nước ta. Ngoài ra, ở vùng biển nước ta có khoảng 340 giếng khoan thăm dò và khai thác dầu khí. Bên cạnh việc thải nước lẫn dầu với khối lượng lớn, hoạt động này còn phát sinh khoảng 5.600 tấn chất thải rắn, trong đó có 20-30 % là chất thải rắn nguy hại còn chưa có bãi chứa và nơi xử lý.
Đa dạng sinh học biển và nguồn lợi thuỷ hải sản giảm sút. Các hệ sinh thái biển quan trọng bị suy thoái, bị mất habitat và bị thu hẹp diện tích. Các quần đàn có xu hướng di chuyển ra xa bờ hơn do thay đổi cấu trúc hoàn lưu ven biển liên quan đến biến đổi khí hậu, thay đổi tương tác sông-biển ở vùng cửa sông ven bờ, do mất đến 60% các nơi cư trú tự nhiên quan trọng. Rừng ngập mặn mất khoảng 15.000 ha/năm, khoảng 80% rạn san hô trong vùng biển Việt Nam nằm trong tình trạng rủi ro, trong đó 50% ở mức cao, tình trạng trên cũng diễn ra tương tự với thảm cỏ biển. Đã có khoảng 100 loài hải sản có mức độ nguy cấp khác nhau và trên 100 loài đã được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam.
Nguồn lợi hải sản có xu hướng giảm dần về trữ lượng, sản lượng và kích thước cá đánh bắt. Năng suất tôm nuôi quảng canh trong trong rừng ngập mặn bị giảm sút từ khoảng 200 kg/ha/vụ (năm 1980), đến nay chỉ còn 80 kg/ha/vụ. 1 ha rừng ngập mặn trước đây có thể khai thác được khoảng 800 kg thuỷ sản, nhưng hiện nay chỉ thu được 1/20 so với trước. Nguồn lợi hải sản ở vùng biển gần bờ có dấu hiệu bị khai thác quá mức do tăng nhanh số lượng tàu thuyền đánh cá nhỏ, hiệu suất khai thác hải sản giảm từ 0,92 (1990) xuống 0,3 tấn/CV/năm (2010), trong khi trữ lượng hải sản ở vùng biển xa bờ chưa được đánh giá đầy đủ.
Đến nay biển, đảo và vùng ven biển nước ta vẫn chủ yếu được quản lý theo cách tiếp cận mở kiểu “điền tư, ngư chung” và chủ yếu quản lý theo ngành thông qua các luật pháp, chính sách ngành. Thiếu các luật cơ bản về biển để thể chế hóa phương thức quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển, hải đảo. Điều này dẫn đến sự chồng chéo về quản lý giữa khoảng 15 bộ, ngành về biển, chính sách quản lý thiếu đồng bộ, trong các luật hiện có không ít điểm chồng chéo, hiệu lực thi hành thấp. Sự tham gia của cộng đồng địa phương vào tiến trình quản lý còn rất thụ động, chưa làm rõ vấn đề sở hữu/sử dụng đất ven biển và mặt nước biển ven bờ cho người dân địa phương ven biển.
Công tác kiểm tra, kiểm soát, cấp và thu hồi giấy phép sử dụng, khai thác tài nguyên biển,…chậm được triển khai để thực hiện chủ trương ‘kinh tế hóa’ trong lĩnh vực tài nguyên biển. Ngoài thiên tai biển xảy ra thường xuyên, Việt Nam còn là một trong số ít nước chịu tác động mạnh mẽ nhất của biến đổi khí hậu và nước biển dâng, trước hết là vùng ven biển và các đảo nhỏ. Tiếp cận phát triển kinh tế biển xanh ở Việt Nam Nhận thức rõ vị trí chiến lược của biển, hải đảo đối với kinh tế và an ninh quốc phòng, Đảng và Nhà nước ta đã sớm có những chủ trương, chính sách đúng đắn và nhất quán qua các thời kỳ về vấn đề này.
Những yếu tố phát triển bền vững
Theo phân tích của Phó Giáo sư Tiến sĩ Chu Hồi, để đạt được mục tiêu nêu trên cần có 4 yếu tố cơ bản. Đó là phát triển một nền kinh tế biển hiệu quả và bền vững. Đây là trục chính để giải quyết các mối quan hệ: giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh trên biển; giữa phát triển kinh tế với bảo đảm an sinh xã hội biển, đảo; giữa phát triển kinh tế với sử dụng hợp lý tài nguyên biển, đảo; giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường biển; giữa phát triển vùng biển, ven biển và hải đảo với phát triển vùng nội địa. Khoa học-công nghệ biển phải trở thành động lực phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển. Xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ biển đáp ứng yêu cầu đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế, phục vụ hiệu quả quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nhà nước khuyến khích đẩy mạnh và mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển giao công nghệ sạch hơn, thân thiện với môi trường biển; nhanh chóng nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ cho nghiên cứu và khai thác tài nguyên biển đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước. Quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo trên cơ sở xác lập một cơ chế phối hợp liên ngành trong quản lý biển, đảo, vùng ven biển để giải quyết đồng bộ các quan hệ khác nhau trong phát triển.
Cơ cấu lại ngành nghề kinh tế biển trên từng địa bàn cho hợp lý, vừa bảo đảm khai thác hiệu quả tài nguyên biển, vừa thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Chuẩn bị điều kiện và cơ cấu lại đội ngũ để vươn ra vùng biển xa, vùng biển quốc tế, chú trọng hiệu quả kinh tế chung tính trên một đơn vị biển, gắn với việc xây dựng "Thương hiệu biển địa phương và quốc gia". Mở rộng hợp tác đa phương và hội nhập quốc tế để phát triển khoa học công nghệ biển và kinh tế biển, cũng như duy trì môi trường hòa bình trong khu vực Biển Đông.
Một trong những quan điểm chỉ đạo quan trọng là thu hút mọi nguồn lực để phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường biển trên tinh thần chủ động, tích cực mở cửa. Phát huy đầy đủ, có hiệu quả các nguồn lực bên trong, tranh thủ hợp tác quốc tế, thu hút mạnh các nguồn lực bên ngoài theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Trong số các giải pháp chiến lược cần tập trung xây dựng sớm và hoàn thiện hệ thống luật pháp và chính sách biển quốc gia, địa phương theo cách tiếp cận liên ngành để quản lý tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo.
Đồng thời chú trọng tăng cường hỗ trợ pháp lý cho người dân địa phương và cộng đồng,…Xây dựng một chiến lược toàn diện và tổng thể với tầm nhìn dài hạn về khai thác, sử dụng tài nguyên biển, hải đảo nhằm bảo đảm an ninh năng lượng, phát triển kinh tế biển xanh hướng tới phát triển bền vững. Chú trọng áp dụng các giải pháp khai thác các giá trị chức năng, phi vật chất và có khả năng tái tạo của các hệ thống tài nguyên biển, ven biển và hải đảo.
Khẩn trương triển khai các quy hoạch sử dụng biển và hải đảo ở cấp độ khác nhau đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Trên cơ sở đó phân bổ nguồn lực và điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội của các ngành, địa phương nhằm tiến tới chấm dứt việc khai thác biển, đảo và vùng ven biển một cách tự phát, thiếu quy hoạch, góp phần giảm thiểu mâu thuẫn/xung đột trong sử dụng không gian biển. Các định hướng phát triển kinh tế-xã hội biển, đảo chủ yếu là đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản về tài nguyên biển và bảo vệ môi trường biển; phát triển khoa học công nghệ biển; xây dựng kết cấu hạ tầng biển gắn với phát triển mạnh các ngành dịch vụ; xây dựng tuyến đường ven biển với một số đoạn cao tốc và các tuyến vận tải cao tốc trên biển.
Hình thành một số lĩnh vực kinh tế mạnh gắn với xây dựng các khu kinh tế “hướng biển” làm động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước. Tăng cường khả năng tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn và phòng chống thiên tai. Nâng cao đời sống dân cư vùng ven biển, trên các đảo và những người họat động trên biển. Đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước và quan hệ quốc tế về biển, đảo. Đến năm 2020, tập trung phát triển thành công và có bước đột phá về kinh tế biển, ven biển đối với các ngành khai thác, chế biến dầu khí; kinh tế hàng hải; khai thác và chế biến hải sản; du lịch biển và kinh tế hải đảo; xây dựng các khu kinh tế, các khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất ven biển gắn với phát triển các khu đô thị ven biển.
Cần phải tổ chức lại lãnh thổ vùng ven biển trên cơ sở quy hoạch sử dụng không gian tổng hợp dựa vào hệ sinh thái. Chú trọng mối liên kết vùng trong phát triển kinh tế biển và ven biển để phát huy sức lan tỏa của các khu kinh tế biển với tư cách là một “cực phát triển” cùng với việc trao cho các khu kinh tế ven biển này một thể chế mở “đẳng cấp quốc tế”, tạo sự hấp dẫn nhằm thu hút đầu tư nhanh và nhiều nhất (đầu tư xanh). Cần nhấn mạnh rằng, xuất đầu tư cho biển lớn hơn nhiều so với các dự án trên đất liền, nhưng hiệu quả đầu tư rất lớn và lâu dài, không thể tư duy ngắn hạn. Xây dựng khuôn khổ quản lý tổng hợp vùng bờ biển, bao gồm cơ chế chính sách phối hợp liên ngành, phối hợp giữa Trung ương và địa phương, các hướng dẫn kỹ thuật và phân vùng chức năng vùng bờ cho phát triển bền vững.
Trước mắt, đẩy nhanh tiến độ thực hiện Quyết định 158/2006/QĐ-TTg về Chương trình quản lý tổng hợp vùng bờ cho 14 tỉnh miền Trung, phấn đấu đến năm 2020 toàn bộ dải bờ biển của 28 địa phương ven biển được áp dụng phương thức quản lý tổng hợp ở mức độ khác nhau. Xây dựng và triển khai phương án phân chia ranh giới biển cho cấp tỉnh, giao mặt nước biển cho cộng đồng sử dụng và tự quản lý dưới sự giám sát của Nhà nước để phân cấp quản lý cho địa phương theo vùng chức năng và quản lý dựa vào hệ sinh thái. Áp dụng các tiêu chuẩn về chất lượng môi trường biển và tiêu chí đánh giá hiệu quả sử dụng biển và hải đảo (dựa theo tính bền vững).
Xây dựng cơ chế phối thuộc kiểm soát môi trường biển (các địa phương, cảnh sát biển, bộ đội biên phòng,…), mạng lưới tuyên truyền biển đảo (các hội, các tổ chức phi chính phủ trong nước, quốc tế, các viện, trường). Chủ động nghiên cứu các tác động của biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng đến vùng ven biển, biển và hải đảo và đề xuất giải pháp thích ứng và giảm thiểu. Xây dựng năng lực giám sát, quan trắc, giảm thiểu và xử lý các thảm họa thiên tai, sự cố môi trường biển, ven biển và hải đảo. Đưa các cân nhắc và các vấn đề môi trường - tài nguyên biển và các rủi ro vào các dự án đầu tư phát triển, các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở vùng ven biển, biển và hải đảo.
Quản lý và xử lý hiệu quả các chất thải, chất gây ô nhiễm trước khi đổ ra biển từ các lưu vực sông ven biển và từ các hoạt động kinh tế ven biển và trên biển. Tăng cường kiểm soát và sẵn sàng ứng cứu các sự cố và thảm họa môi trường biển, các vụ tràn dầu không rõ nguồn gốc,...Ngăn ngừa suy thoái và phục hồi các habitat đã bị mất, các hệ sinh thái quan trọng (rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển) đã bị suy thoái. Quy hoạch mở rộng và quản lý hiệu quả hệ thống khu bảo tồn biển đến năm 2020 để phát triển nghề cá và du lịch sinh thái biển bền vững; tiếp tục nghiên cứu để phát hiện các vùng biển giàu, đẹp, có các giá trị quốc gia, quốc tế để trình cấp có thẩm quyền cũng như các tổ chức quốc tế công nhận. Bảo tồn, phục hồi đa dạng sinh học biển và nguồn lợi thuỷ sản, nguồn giống hải sản tự nhiên,...đang giảm sút.
Phải kiên quyết giảm số lượng tàu thuyền đánh cá nhỏ, tổ chức lại đội hình đánh bắt hải sản và tăng cường hiệu suất khai thác hải sản dựa trên việc ban hành riêng biệt các chính sách với nghề cá nhỏ và nghề cá lớn, cũng như quản lý tổng hợp nghề cá dựa trên cơ sở giải quyết đồng bộ vấn đề - ngư dân, ngư nghiệp và ngư trường (tam ngư) và dựa vào hệ sinh thía. Khuyến khích sự chủ động tham gia của cộng đồng địa phương vào tiến trình quản lý biển, đảo và làm rõ vấn đề sở hữu/sử dụng đất ven biển, trên đảo và mặt nước biển cho người dân. Áp dụng cách tiếp cận quản lý không gian biển thông qua các mô hình trình diễn và sau đó nhân rộng. Áp dụng phương thức đồng quản lý tài nguyên và môi trường biển dựa vào cộng đồng.
Thường xuyên nâng cao nhận thức cho cộng đồng dân cư ven biển và trên các đảo, cùng với việc cải thiện sinh kế và xoá đói giảm nghèo, trên cơ sở đó giúp họ thay đổi hành vi cá nhân trong cách đối xử với môi trường biển. Hàng năm tổ chức các hoạt động cụ thể, thiết thực trong Tuần lễ biển và Hải đảo Việt Nam (1-7/6) để kỷ niệm Ngày Môi trường thế giới (5/6) và Ngày Đại dương thế giới (8/6) hướng vào các vấn đề phát triển kinh tế biển xanh, phát triển bền vững biển đảo và bảo đảm an ninh, chủ quyền biển, đảo.