Vùng nuôi tôm hùm trên vịnh Cam Ranh. Ảnh tư liệu: Phan Sáu/TTXVN
Bài 1: Khánh Hòa tiên phong với mô hình nuôi biển
Trong chiến lược phát triển kinh tế biển bền vững, nuôi biển công nghiệp đang trở thành hướng đi tất yếu của Việt Nam. Khánh Hòa - địa phương có truyền thống mạnh về thủy sản đang tiên phong chuyển mình, từ những lồng gỗ ven bờ đến hệ thống nuôi biển công nghệ cao giữa khơi xa. Hợp tác xã Nuôi biển công nghệ cao Vạn Ninh - hợp tác xã nuôi biển công nghiệp đầu tiên của tỉnh mới đây đã được ra mắt. Điều này đánh dấu bước ngoặt quan trọng cho người nuôi biển ở tỉnh Khánh Hòa, mở ra kỷ nguyên nuôi trồng thủy sản công nghiệp, bền vững.
“Bước đi nhỏ, thành công lớn”
Với đường bờ biển dài gần 500 km, hơn 200 đảo lớn nhỏ cùng nhiều đầm, vịnh kín gió, Khánh Hòa được xem là địa phương có điều kiện tự nhiên lý tưởng cho phát triển nuôi biển công nghiệp. Những năm gần đây, tỉnh đã đẩy mạnh ứng dụng lồng nuôi nhựa HDPE - loại vật liệu có khả năng chịu sóng gió mạnh, độ bền cao, thích ứng tốt với biến đổi khí hậu.
Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường Khánh Hòa, mỗi năm tỉnh đạt hơn 32.000 tấn thủy sản nuôi trồng, trong đó nuôi biển chiếm khoảng 50%. Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt gần 850 triệu USD. Toàn tỉnh hiện có hơn 80.800 ô lồng nuôi tôm hùm, cùng 15.000 lồng nuôi cá biển các loại. Khánh Hòa cũng là trung tâm sản xuất giống thủy sản lớn nhất cả nước, chiếm khoảng 30% tổng sản lượng giống toàn quốc, với 558 cơ sở sản xuất, cung ứng hơn 41 tỷ con giống mỗi năm; trong đó có 40 cơ sở ương dưỡng tôm hùm đạt sản lượng 27 triệu con.
Những năm gần đây, tỉnh đã thí điểm thành công nhiều mô hình nuôi biển công nghệ cao sử dụng lồng HDPE, có khả năng chịu sóng gió, thích ứng với biến đổi khí hậu. Các mô hình nuôi cá bớp, cá mú trân châu, tôm hùm tại Cam Ranh và Đại Lãnh đều đạt tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với lồng gỗ truyền thống, từ 112 - 172%. Hợp tác xã Nuôi biển công nghệ cao Vạn Ninh hay Hợp tác xã Du lịch thủy sản Vân Phong đã hình thành, ứng dụng công nghệ nuôi bằng lồng HDPE kết hợp phát triển du lịch, tạo chuỗi giá trị bền vững.
Ông Nguyễn Văn Tý, một trong những hộ tiên phong nuôi cá bớp tại vùng biển hở tại Nam Cam Ranh chia sẻ: Trước đây, ông nuôi bằng lồng gỗ rất vất vả, nhất là khi gặp sóng to, mưa bão. Bè gỗ vừa khó vận hành, vừa kém an toàn, không phù hợp với quy mô nuôi lớn. Từ khi chuyển sang lồng HDPE, việc nuôi trở nên thuận tiện hơn nhiều. Loại lồng này có cấu trúc chắc chắn, dễ di chuyển, chịu sóng gió tốt và thích ứng với môi trường biển sâu, giúp người nuôi yên tâm sản xuất.
Không chỉ giúp người dân yên tâm sản xuất, công nghệ mới còn góp phần giảm áp lực lên vùng ven bờ, mở rộng không gian nuôi ra biển xa, đồng thời hạn chế ô nhiễm và xung đột với hệ sinh thái. Ông Nguyễn Thanh Sang, Chủ tịch HĐQT Hợp tác xã Nuôi trồng thủy sản du lịch Vân Phong cho biết, hợp tác xã đã tiên phong ứng dụng mô hình nuôi biển công nghệ cao tại Khánh Hòa, sử dụng lồng nhựa HDPE có khả năng chịu sóng gió mạnh ở vùng biển xa bờ. Việc chuyển đổi công nghệ này không chỉ giúp giảm rủi ro từ sóng gió và dịch bệnh, mà còn tạo môi trường nuôi sạch, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế.
Bên cạnh đó, hợp tác xã còn đóng vai trò kết nối sản xuất, liên kết chuỗi giá trị và hỗ trợ người nuôi tiếp cận thị trường. “Chúng tôi không chỉ tập trung vào nuôi trồng mà còn hướng tới phát triển du lịch thủy sản, tạo giá trị bền vững cho người dân ven biển,” ông Nguyễn Thanh Sang cho biết.
Ngoài tôm hùm và cá biển, tỉnh Khánh Hòa còn phát triển các đối tượng nuôi giá trị sinh thái cao như hàu Thái Bình Dương, rong biển, hải sâm, trai ngọc, góp phần đa dạng hóa sản phẩm và tăng sức cạnh tranh cho ngành thủy sản địa phương.
Ông Nguyễn Duy Quang, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Khánh Hòa cho biết, việc ứng dụng công nghệ cao không chỉ nâng cao năng suất mà còn giúp bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Khánh Hòa đã và đang trở thành điểm sáng trong nuôi biển công nghiệp, tạo ra sản phẩm hải sản chất lượng cao phục vụ xuất khẩu sang Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ…
Đưa nuôi biển vươn xa
Các mô hình qua các năm đều chứng minh tính ưu việt của lồng HDPE: hiệu quả kinh tế cao, an toàn hơn trước thiên tai, thân thiện môi trường, góp phần ổn định và quản lý vùng nuôi biển bền vững. Hiện nay đã có nhiều cơ sở, đơn vị áp dụng trên địa bàn tỉnh như: Công ty TNHH Ngọc Trai, Công ty TNHH Thủy sản Australis Việt Nam, Trung tâm Nuôi biển công nghệ cao…
Nhằm tiếp tục triển khai việc mở rộng mô hình thí điểm phát triển nuôi biển công nghệ cao giúp người dân nuôi biển từng bước chuyển đổi từ lồng nuôi truyền thống sang lồng nuôi bằng vật liệu mới (HDPE, FRP…). Hiện nay, Sở Nông nghiệp và Môi trường và các địa phương đang phối hợp Quỹ Thiện Tâm - Tập đoàn Vingroup tiếp tục triển khai hỗ trợ kinh phí lắp đặt lồng nuôi đối với 70 hộ trên địa bàn tỉnh.
Đáng chú ý, Khánh Hòa còn có hệ thống nghiên cứu thủy sản hàng đầu cả nước với Viện Hải dương học, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III và Trường Đại học Nha Trang. Đây là nguồn lực khoa học quý giá, giúp tỉnh ứng dụng công nghệ sinh học, chọn tạo giống mới, kiểm soát môi trường vùng nuôi, hướng tới mô hình nuôi biển xanh và bền vững.
Với tiềm năng, lợi thế cùng nền tảng khoa học và nhân lực, chuyên gia Leonardo Mata, Giám đốc Dự án tảo biển Green Grazing, Công ty TNHH Thủy sản Australis Việt Nam đánh giá Khánh Hòa có đầy đủ điều kiện để phát triển nuôi biển thành ngành công nghiệp tỷ đô.
Bên cạnh những thành quả nổi bật, ngành nuôi biển Khánh Hòa vẫn đối diện nhiều thách thức. Theo ông Nguyễn Duy Quang, nguồn giống chất lượng cao còn phụ thuộc nhập khẩu hoặc khai thác tự nhiên, khiến chi phí sản xuất tăng và khó chủ động trong cung ứng. Hạ tầng vùng nuôi tập trung chưa đồng bộ, phần lớn hộ dân vẫn nuôi quy mô nhỏ, sử dụng lồng gỗ, thiếu thiết bị giám sát môi trường. Công tác quy hoạch và cấp quyền sử dụng mặt nước còn chậm, hệ thống phao tiêu, biển báo phục vụ nuôi biển chưa hoàn thiện. Nguồn vốn đầu tư lớn, thời gian nuôi dài cũng khiến nhiều hộ dân e dè, trong khi doanh nghiệp lớn tham gia còn hạn chế.
Mới đây, Khánh Hòa đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thí điểm phát triển nuôi biển công nghệ cao tại Quyết định số 231/QĐ-TTg. Thực hiện đề án này dự kiến nguồn vốn đầu tư 1.000 tỷ đồng; trong đó, ngân sách tỉnh cung cấp 300 tỷ đồng, người nuôi đóng góp 400 tỷ đồng và phần còn lại từ vốn vay ưu đãi và các tổ chức tín dụng khác. Đề án này sẽ góp phần tăng năng suất và giá trị sản xuất thủy sản, cải thiện thu nhập cho người dân và các tổ chức liên quan, tạo việc làm và thúc đẩy điều kiện kinh tế - xã hội. Đồng thời, bảo vệ môi trường biển và hướng tới phát triển kinh tế biển bền vững, giảm áp lực lên vùng biển ven bờ và giảm thiểu xung đột phát triển giữa các ngành kinh tế tại địa phương.
Theo ông Trịnh Minh Hoàng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa, việc triển khai các mô hình thí điểm nuôi biển công nghệ cao chính là bước đi cụ thể hóa chiến lược phát triển kinh tế biển bền vững. Tỉnh đang tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ ngư dân vay vốn ưu đãi, mua bảo hiểm phòng ngừa rủi ro, đồng thời đầu tư 500 tỷ đồng giai đoạn 2026-2030 để xây dựng hạ tầng vùng nuôi tập trung trên biển. “Mục tiêu là giúp người dân yên tâm đầu tư, giảm chi phí, tăng lợi nhuận, hướng tới hình thành ngành nuôi biển công nghiệp quy mô lớn gắn với bảo vệ môi trường và chủ quyền biển đảo”, ông Trịnh Minh Hoàng nhấn mạnh.
Từ thực tiễn ở Khánh Hòa, có thể thấy con đường công nghiệp hóa nghề nuôi biển đang dần hình thành - bắt đầu từ đổi mới công nghệ, mở rộng không gian sản xuất và nâng cao giá trị sản phẩm. Thế nhưng, để mô hình này lan tỏa và phát huy hiệu quả trên phạm vi cả nước, cần những giải pháp đồng bộ về chuỗi giá trị, hạ tầng và chính sách.
Bài 2: Nâng cao chuỗi giá trị