Làm giàu thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin
Với đường lối đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tiễn Việt Nam, ngay sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo Cao trào cách mạng 1930-1931, với đỉnh cao là phong trào Xô viết - Nghệ Tĩnh, tiếp đó là Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936-1939). Trong cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939-1945), Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh từng bước hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, khi xác định: "Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới quyền lợi giải phóng của toàn thể dân tộc" . Khi thời cơ cách mạng chín muồi, lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lúc này, thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải cương quyết giành cho được độc lập”. Nhờ sự chủ động, sáng tạo của của Đảng và các Đảng bộ địa phương, trong khoảng nửa tháng, Tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi trên phạm vi cả nước. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là cuộc đổi đời vĩ đại không chỉ trong lịch sử Việt Nam mà cả lịch sử đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc trên thế giới. Đó là đòn quyết định phá tung một mắt xích quan trọng, thúc đẩy sự tan rã nhanh chóng của hệ thống thuộc địa; mở đầu quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám góp phần làm giàu thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Nó chứng tỏ rằng, trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở một nước thuộc địa, do toàn dân nổi dậy, dưới sự lãnh đạo của một Đảng Mác-Lênin, có đường lối đúng đắn hoàn toàn có thể giành thắng lợi.Với những giá trị và tầm vóc to lớn đó, Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một trong những "chiến công hiển hách và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại của dân tộc Việt Nam" trong thế kỷ XX. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã mở ra một thời đại mới, thời đại rực rỡ của lịch sử dân tộc - thời đại Hồ Chí Minh, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Thử thách và thắng lợi vẻ vang
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngay sau khi ra đời đã phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách, đặc biệt là phải đối mặt với “giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”. Trong tình thế cách mạng đó, Đảng lãnh đạo nhân dân ta vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, tích cực chuẩn bị mọi mặt chống lại sự trở lại xâm lược của thực dân Pháp.
Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Niềm vui độc lập thật ngắn ngủi, từ đây, nhân dân ta đã phải đối đầu với kẻ thù xâm lược có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh hơn mình gấp nhiều lần. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với đường lối cách mạng đúng đắn, thực hiện chủ trương kháng chiến “toàn dân”, “toàn diện”, “trường kỳ”, “dựa vào sức mình là chính”, đặc biệt là phát huy được truyền thống đoàn kết, yêu nước của toàn thể dân tộc, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại mọi âm mưu, kế hoạch xâm lược của kẻ thù. Tiêu biểu là các thắng lợi của Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947, Chiến dịch Biên Giới 1950, đặc biệt là thắng lợi trong Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, với đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ (21/7/1954), chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở miền Bắc Việt Nam. Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ là "lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới" (trích Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, Tập 10, tr.12).
Sau khi thực dân Pháp rút khỏi Việt Nam, thế chân Pháp, đế quốc Mỹ nhảy vào xâm lược Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, thành căn cứ quân sự để ngăn chặn phong trào cộng sản và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đang phát triển mạnh mẽ ở Đông Dương và Đông Nam Á. Đặc biệt, với các chiến lược chiến tranh tàn bạo như: “chiến tranh đặc biệt”, chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh”, đế quốc Mỹ đã đặt sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam trước những thử thách ngặt nghèo nhất.
Trước tình hình nghiêm trọng đó, Đảng đã lãnh đạo quân dân cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Miền Bắc là hậu phương lớn, miền Nam là tiền tuyến lớn. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nhằm mục đích cuối cùng là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trên tinh thần đó, quân dân miền Bắc đã lao động quên mình, với khẩu hiệu “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để đánh thắng”; đồng thời, đã anh dũng, kiên cường đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Trong khi đó, ở miền Nam, quân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn gian khổ để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Bằng những trận đánh, những chiến dịch lớn, quân dân miền Nam đã lập nên nhiều chiến công vang dội. Đặc biệt, với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, chúng ta đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV nêu rõ: Thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX".
Con đường cách mạng đúng đắn
Chiến tranh qua đi, hậu quả để lại vô cùng nặng nề, nhưng nhân dân Việt Nam tiếp tục phải đương đầu với kẻ thù xâm lược. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân dân ta vừa tập trung khôi phục kinh tế, xã hội vừa chiến đấu và chiến thắng trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc; đồng thời, cứu nhân dân Campuchia khỏi thảm họa diệt chủng và trực tiếp góp phần quan trọng vào công cuộc hồi sinh đất nước Chùa Tháp.
Cũng trong giai đoạn lịch sử này, trước những yêu cầu mới của sự phát triển đất nước, nhận thức được những bất cập của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, Đảng đã tổng kết sáng kiến của nhân dân, đổi mới từng phần trong nông nghiệp, công nghiệp và bước đầu đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội cũng như từng bước hình thành đường lối đổi mới. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986), trên cơ sở phân tích sâu sắc tình hình đất nước và qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm thực tiễn trong nước và quốc tế, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đánh dấu bước ngoặt trên hành trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đường lối đổi mới đã đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn lịch sử, thể hiện tư duy sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và mở ra một thời kỳ phát triển mới cho đất nước.
Từ thập niên cuối của thế kỷ XX, trong bối cảnh chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và một số nước Đông Âu sụp đổ; chủ nghĩa xã hội và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế lâm vào thoái trào, Việt Nam vẫn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Để thích ứng với sự phát triển của thời đại, Đảng đã lãnh đạo tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện trên cơ sở nhận thức đúng, vận dụng và không ngừng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới. Đảng xác định đổi mới toàn diện đồng bộ, nhưng có trọng tâm, trọng điểm trong từng giai đoạn; đặt đổi mới tư duy lên hàng đầu để mở đường và định hướng cho quá trình đổi mới; trong đó, đổi mới phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt cùng với phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội; tăng cường quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên; lấy sự ổn định chính trị - xã hội làm tiền đề và điều kiện tiên quyết cho sự nghiệp đổi mới và phát triển.
Sau gần 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Từ một nước nghèo, kém phát triển, Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; nhân dân có đời sống vật chất và tinh thần ngày càng cao; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố, mở rộng và phát huy; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh được giữ vững; độc lập, chủ quyền được bảo đảm; vị thế và uy tín đất nước ngày càng nâng cao trên trường quốc tế. Đặc biệt, đến hết năm 2019, GDP đạt tăng trưởng 7,02%; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có bước đột phá; công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng đạt hiệu quả tích cực; Việt Nam lần thứ hai được bầu với số phiếu rất cao, trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Với tất thảy những gì đạt được, có thể khẳng định, chưa bao giờ Việt Nam có cơ đồ và vị thế như ngày nay.
Như vậy, công cuộc đổi mới đã đáp ứng được những đòi hỏi bức thiết của tình hình đất nước, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại; có ý nghĩa như một cuộc cách mạng trong thời kỳ mới, một sự nghiệp thật sự sáng tạo của dân tộc Việt Nam; khẳng định con đường cách mạng vô sản (gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội) là hoàn toàn đúng đắn, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, đem lại cho người dân cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Thực tiễn phong phú, sinh động của cách mạng Việt Nam trong 90 năm qua đã khẳng định, sự lựa chọn con đường cách mạng đúng đắn - con đường cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng của Lênin là một trong những yếu tố quyết định đến mọi thắng lợi của cách mạng, lập nên nhiều kỳ tích trên đất nước Việt Nam. Nói cách khác, những thành tựu đạt được là vận dụng sáng tạo tư tưởng của Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.