Nguyên liệu chính của bánh chưng đen là gạo nếp trắng và được nhuộm đen bằng tro rơm, không phải làm từ nếp cẩm hay là loại nếp có màu đen tự nhiên.
Để bánh có màu đen đẹp bóng, ngay từ tháng 10 âm lịch, sau vụ gặt lúa mùa, đồng bào đã chọn nếp và rơm cất sẵn. Nếp phải chọn loại dẻo thơm nhất, lựa bông đẹp, chắc hạt, đạp lấy hạt, giã đến khi trắng. Rơm chọn những cọng nếp, to, vàng ươm, đem phơi khô, đốt thành tro, vò kỹ, rây lấy phần mịn nhất rồi trộn với gạo nếp thơm.
Công đoạn cầu kỳ nhất là trộn bột tro nếp với gạo sao cho khi thử miết mạnh hạt gạo trên đầu ngón tay, thấy vẫn tròn vẹn màu đen nhánh mới đạt. Ngoài ra, trước khi gói bánh thêm ít hạt Nga Chiếng (một loại vừng mọc tự nhiên trong rừng) xay nhỏ trộn vào để tạo vị đậm đà cho bánh.
Bánh chưng đen người Thái ở Qùy Hợp không có nhân. Lá gói bánh là lá dong rừng rửa sạch, lau khô mới đem gói. Việc chuẩn bị nguyên liệu cho bánh chưng đen chỉ có người con dâu trưởng trong nhà làm, gói bánh và luộc bánh do đàn ông trong nhà có kinh nghiệm và khéo tay làm. Các thành viên khác chỉ phụ giúp.
Bánh chưng đen của người Thái được gói theo 4 loại. Đầu tiên là “khâu tôm kháu khoài” (bánh sừng trâu) - bánh nhọn, hình sừng trâu. Loại bánh này có ý nghĩa cầu cho đàn trâu khỏe mạnh, sinh sôi để cày kéo. Loại thứ hai là bánh “khâu tôm cộp” (bánh đôi) - mỗi chiếc bánh là một cặp đôi gói nhỏ, hình trụ. Bánh thể hiện quan điểm cầu may cho gia đình hạnh phúc. Loại thứ ba là “khâu tôm khuản tụ” (bánh gậy) - gói bánh hình chiếc gậy. Loại bánh này có ý cầu cho người già được sống lâu. Loại thứ tư là “khâu tôm pom” (bánh hình vuông nhỏ). Bánh lớn hơn hộp diêm, buộc thành chùm, mỗi chùm 5 bánh. Bánh này có ý nghĩa cầu cho sung túc, mọi sự tròn trịa, đầy đủ trong năm mới.
Nét độc đáo của bánh chưng đen còn ở vị bùi bùi, thơm mát, có tác dụng “hạ hỏa”. Bánh chưng đen để được rất lâu, đến hết tháng giêng vẫn thơm ngon. Theo quan niệm của người Thái, tài khéo léo khi gói bánh chưng đen là một tiêu chí để chọn nàng dâu.