Phát huy lợi thế của quy mô dân số 100 triệu dân cho phát triển đất nước

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, dân số Việt Nam đã vượt qua mốc 100 triệu dân vào tháng 4/2023. Để tận dụng cơ hội của đất nước với quy mô dân số 100 triệu dân và thời kỳ cơ cấu dân số vàng này, Chính phủ cần hoàn thiện thể chế, chính sách đồng bộ, thống nhất nhằm tạo dựng và nâng cao hiệu quả vận hành thị trường lao động linh hoạt, hội nhập và phát triển bền vững đáp ứng nhu cầu lao động của doanh nghiệp… 

Để hiểu rõ hơn những cơ hội và lợi thế của quy mô dân số 100 triệu dân, Phóng viên Thông tấn xã Việt Nam đã có cuộc trao đổi với TS. Nguyễn Bích Lâm, chuyên gia kinh tế, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, xung quanh nội dung này.

Chú thích ảnh
Lợi thế từ dân số “vàng” là cơ hội để Việt Nam tạo “bước nhảy vọt” trong phát triển kinh tế - xã hội. Ảnh minh họa: Freepik.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, dân số Việt Nam đã vượt qua mốc 100 triệu dân, xin ông cho biết lợi thế của nền kinh tế với mốc lịch sử này là gì?

 Sự kiện Việt Nam chào đón công dân thứ 100 triệu là dấu mốc quan trọng, tạo dấu ấn lịch sử trong công cuộc xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước. Với dân số 100 triệu, Việt Nam đứng vào nhóm 15 nước đông dân nhất thế giới, thứ 8 ở châu Á và thứ 3 khu vực Đông Nam Á.

Việt Nam có nhiều cơ hội để phát triển nhanh và bền vững trong thời kỳ "cơ cấu dân số vàng" với nguồn lao động trẻ dồi dào; thị trường tiêu dùng trong nước với quy mô 100 triệu dân, trong đó người có thu nhập từ lao động, có nhu cầu chi tiêu cao và sẵn sàng chi tiêu chiếm tỷ lệ cao, là thị trường tiêu dùng đầy tiềm năng.

Với quy mô 100 triệu dân trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng; với thể chế kinh tế thị trường ngày càng hoàn thiện, môi trường kinh doanh ngày càng thông thoáng, hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng mang lại nhiều lợi thế cho hàng hoá Việt; với đội ngũ lao động trẻ dồi dào là những lợi thế thu hút đầu tư nước ngoài, đưa nền kinh tế nước ta tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, nâng vị thế kinh tế Việt Nam trên bản đồ kinh tế thế giới.

Người Việt Nam thông minh, nhạy bén dễ nắm bắt cái mới, cần cù sáng tạo, đây là lợi thế để người lao động nắm bắt khoa học công nghệ, nâng cao trình độ, kỹ năng, là một trong các động lực nâng cao năng suất lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế khi Chính phủ có bước đột phá trong thực thi chiến lược đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực quốc gia.

Mở rộng quy mô dân số đồng nghĩa với gia tăng lực lượng lao động. Thị trường lao động hiện nay có phù hợp với quy mô dân số và đòi hỏi của nền kinh tế không, thưa ông?

 Hiện nay, thị trường lao động Việt Nam có một số hạn chế đáng lo ngại, cả bên cung và bên cầu chưa đáp ứng được một thị trường lao động hiện đại, linh hoạt, bền vững và hội nhập.

Cơ cấu lao động theo 3 khu vực kinh tế chưa hợp lý, lao động làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm tới 27,5% tổng số. Số lượng lao động tăng nhanh nhưng ở khu vực phi chính thức. Chất lượng lao động chưa đáp ứng nhu cầu. Tính bấp bênh và dễ bị tổn thương đến việc làm và thu nhập của người lao động khá cao. Lao động thời vụ phát triển, hạn chế về đào tạo kỹ năng.

Lực lượng lao động Việt Nam có chất lượng thấp, chủ yếu là lao động nông nghiệp, nông thôn, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Thị trường lao động đang thiếu hụt nghiêm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao, đặc biệt tại một số ngành dịch vụ như: ngân hàng, tài chính, thông tin, viễn thông, du lịch và những ngành công nghiệp mới.

Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề còn thấp, kỹ năng, tay nghề còn yếu nên khả năng cạnh tranh thấp. Người lao động chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm; hạn chế về khả năng hợp tác, gánh chịu rủi ro, không phù hợp với quy trình sản xuất hiện đại; không có tinh thần phát huy sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm…

Trong thập kỷ qua, Đảng và Chính phủ đã quan tâm đến đào tạo trình độ và kỹ năng cho lực lượng lao động. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ liên tục tăng qua các năm. Cụ thể, năm 2010 tỷ lệ lao động qua đào tạo chỉ ở mức 14,7% trong tổng lực lượng lao động; đến năm 2020 tỷ lệ này tăng lên mức 24,1% và đến quý I/2023 là 26,4%. Tuy vậy, đến quý I/2023, trong số 52,2 triệu người thuộc lực lượng lao động của toàn nền kinh tế, có khoảng 38,1 triệu lao động chưa qua đào tạo.

Đây là thách thức lớn đối với mục tiêu hiện thực hóa khát vọng xây dựng một Việt Nam hùng cường; đặt ra yêu cầu cấp bách trong thời gian tới Chính phủ phải khẩn trương xây dựng và thực hiện các chương trình đào tạo nhằm nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động.

Thưa ông, vì sao chất lượng của thị trường lao động nước ta chưa được cải thiện nhiều?

Trong những năm qua, chất lượng của thị trường lao động nước ta chưa được cải thiện nhiều do hai nhóm nguyên nhân, đó là việc thực hiện vai trò quản lý nhà nước về lao động việc làm chưa tốt, cùng với đó việc định hướng nghề của hệ thống giáo dục, đào tạo chưa phù hợp, cụ thể:

Một là, chưa thực hiện đầy đủ vai trò của cơ quan quản lý nhà nước về hỗ trợ người lao động trên các phương diện như: tài chính; đào tạo kỹ năng, cung cấp các tư vấn cá nhân; tìm kiếm và giới thiệu việc làm phù hợp với kỹ năng, tay nghề và khả năng của người lao động. Bên cạnh đó, cơ quan quản lý nhà nước chưa hỗ trợ người lao động khi họ có nhu cầu thay đổi công việc, nâng cao kỹ năng trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Hai là, đầu tư cho công tác đào tạo nghề chưa thỏa đáng; chưa có chương trình, kế hoạch tổng thể dài hạn về đào tạo nghề cho người lao động. Cơ chế, chính sách đối với đào tạo nghề còn nhiều bất cập, chưa thu hút được sự đồng hành của các doanh nghiệp sử dụng lao động tham gia cùng với cơ quan quản lý nhà nước về đào tạo, dẫn đến tình trạng cung - cầu lao động không đồng nhịp.

Ba là, định hướng nghề nghiệp phù hợp cho lao động tương lai từ trên ghế nhà trường còn nhiều bất cập; chưa dự báo được nhu cầu của thị trường lao động để định hướng cho học sinh ngay từ bậc trung học và đại học, dẫn đến tình trạng thừa thầy, thiếu thợ ở rất nhiều ngành, nghề.

Bốn là, các chính sách thúc đẩy việc làm, nâng cao khả năng của người lao động còn yếu, chưa phù hợp; chưa tập trung đúng mức để khuyến khích đào tạo nghề liên tục, tiếp nối tạo sự thích ứng cho người tìm việc đối với một thị trường lao động đang thay đổi.

Cuối cùng là, công tác tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức của người lao động chưa đầy đủ và kém hiệu quả để họ thấy rõ việc học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm, là yêu cầu để đảm bảo việc làm, nâng cao thu nhập, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển doanh nghiệp.

Dân số nước ta đang trong giai đoạn dân số vàng, nhưng tốc độ già hóa rất nhanh dẫn đến trường hợp "chưa giàu đã già". Vấn đề này được nhìn nhận ra sao, thưa ông?

Cơ cấu dân số của một quốc gia được coi là trong thời kỳ dân số vàng khi nhóm dân số trẻ em dưới 15 tuổi chiếm tỷ trọng thấp hơn 30% và nhóm dân số người cao tuổi chiếm tỷ trọng thấp hơn 15%. Hiện nay, tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động từ 15 - 64 tuổi khá cao, chiếm khoảng 67% tổng dân số cả nước. Thời kỳ cơ cấu dân số vàng của nước ta bắt đầu vào năm 2007, dự báo kết thúc vào năm 2039.

Tuy nhiên, xu hướng già hóa dân số đang diễn ra nhanh, tỷ trọng nhóm dân số trẻ dưới 15 tuổi liên tục giảm, tỷ trọng nhóm dân số người cao tuổi từ 65 tuổi trở lên liên tục tăng, dự báo Việt Nam sẽ trở thành quốc gia có dân số già vào năm 2036.

Mặc dù, Việt Nam đang khai thác lợi thế của thời kỳ cơ cấu dân số vàng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tuy vậy, nền kinh tế hiện đang sử dụng nguồn lao động giá rẻ, lao động giản đơn; trên 50% lao động chủ yếu làm các công việc đòi hỏi kỹ năng trung bình và khoảng 25% lao động làm các công việc giản đơn với kỹ năng thấp.

Không những thế, đa số lao động, với khoảng 68% tham gia làm các công việc thuộc khu vực phi chính thức; chỉ có 26,2% lao động qua đào tạo có trình độ từ sơ cấp trở lên. Thời kỳ cơ cấu dân số vàng tạo ra nhiều thuận lợi, nhưng cũng đưa đến nhiều khó khăn, thách thức.

Để nắm bắt cơ hội, tận dụng được thời cơ của cơ cấu dân số vàng, Việt Nam phải có những đột phá quan trọng về phát triển chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu thị trường lao động trong nước, khu vực và thế giới.

Thưa ông, thời kỳ cơ cấu dân số vàng chỉ xuất hiện một lần, nếu không được khai thác sẽ rất lãng phí. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào và cần những giải pháp gì để tận dụng cơ hội của thời kỳ này cho phát triển?

Thời kỳ cơ cấu dân số vàng là cơ hội hiếm có để các quốc gia cất cánh về kinh tế. Theo các nhà nhân khẩu học, cơ cấu "dân số vàng" thường kéo dài từ 30 - 35 năm, thậm chí 40-50 năm.

Đối với nước ta, xu hướng già hóa dân số đang diễn ra nhanh, thời kỳ cơ cấu dân số vàng của Việt Nam chỉ kéo dài trong khoảng 30 năm. Vì vậy, Việt Nam cần chớp lấy thời cơ để phát triển vì cơ hội này sẽ không quay trở lại, nếu có phải ít nhất 100 - 200 năm sau.

Việt Nam đang trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng, gần 70% dân số trong độ tuổi lao động - đây là cơ hội "có một không hai" để nước ta phát triển kinh tế - xã hội, là nền tảng và cơ hội vàng cho Việt Nam có thể thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thời kỳ cơ cấu dân số vàng mang lại cơ hội lớn để tận dụng nguồn nhân lực có chất lượng cho tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Tuy vậy, để tận dụng được cơ hội này đòi hỏi Chính phủ phải có những chính sách, giải pháp đột phá, phù hợp nhằm khắc phục những bất cập của lực lượng lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động, tăng năng suất, tạo việc làm cho lực lượng lao động trẻ, bảo đảm an sinh xã hội cho người già và người dễ bị tổn thương, bảo đảm bình đẳng giới.

Đối với nước ta hiện nay, muốn hoà nhập và tận dụng thành công thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đòi hỏi phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bắt đầu ngay từ khâu đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề.

Cùng với đó, cần đổi mới quan điểm, phương thức và linh hoạt trong đào tạo lực lượng lao động theo sự thay đổi của thế giới, đào tạo người lao động không chỉ có tay nghề mà còn phải có nhiều kỹ năng, từ ngoại ngữ cho đến các kỹ năng khác để có thể đáp ứng yêu cầu hội nhập, đảm bảo nguồn nhân lực có tính cạnh tranh.

Để tận dụng cơ hội của đất nước với quy mô dân số 100 triệu và thời kỳ cơ cấu dân số vàng, Chính phủ cần hoàn thiện thể chế, chính sách đồng bộ, thống nhất nhằm tạo dựng và nâng cao hiệu quả vận hành thị trường lao động linh hoạt, hội nhập và bền vững đáp ứng nhu cầu lao động của doanh nghiệp, xu hướng chuyển đổi chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực.

Bên cạnh đó, Chính phủ khẩn trương xây dựng và thực thi chính sách thị trường lao động tích cực, chủ động thực hiện phương châm đào tạo, đào tạo lại, đào tạo thích ứng cho lực lượng lao động đang làm việc; đồng thời, thực hiện phương châm học suốt đời, học linh hoạt nhằm nâng cao trình độ và kỹ năng của người lao động đáp ứng đòi hỏi về nâng cao và bồi đắp kỹ năng lao động.

Đặc biệt, Chính phủ cần đổi mới công tác quản lý, sử dụng đánh giá và đào tạo lại đội ngũ nhân lực; đổi mới căn bản và toàn diện chính sách tuyển dụng, đánh giá, sử dụng và đề bạt đội ngũ cán bộ trong bộ máy nhà nước.

Con người trong mọi lĩnh vực, trên mọi phương diện và ở mọi thời điểm luôn là yếu tố quyết định, đảm bảo thành công cho việc thực hiện tất cả các mục tiêu phát triển của đất nước. Khi Chính phủ thực thi thành công các chính sách và giải pháp nâng cao chất lượng dân số, chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng được đòi hỏi của nền kinh tế, nâng cao năng suất lao động, Việt Nam sẽ tận dụng thành công cơ hội của thời kỳ cơ cấu dân số vàng với quy mô 100 triệu dân để đất nước phát triển nhanh, thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình; đồng thời, đẩy lùi được nguy cơ chưa giàu đã già.

Xin cảm ơn ông!

Thuý Hiền (thực hiện)
Dân số già hóa thách thức nền kinh tế toàn cầu
Dân số già hóa thách thức nền kinh tế toàn cầu

Nhật báo Le Figaro của Pháp đã đăng bài viết cảnh báo về ảnh hưởng của tốc độ già hóa dân số đối với nền kinh tế toàn cầu, cho rằng nhận thức của người dân hiện nay về tác động của tỷ lệ sinh thấp hơn và tuổi thọ cao hơn là chưa đầy đủ. 

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN