Vừa qua, có một số ý kiến cho rằng một số nhà máy thủy điện ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên xả lũ làm ngập lụt lớn ở vùng hạ du gây thiệt hại lớn về người và tài sản là chưa phản ánh đầy đủ khách quan thực trạng. Đây là đánh giá chung của nhiều đại biểu tại buổi làm việc giữa Bộ Công Thương với lãnh đạo của 8 tỉnh miền Trung và các bộ, ngành về vấn đề lũ lụt ở miền Trung liên quan đến thủy điện, diễn ra ngày 25/11, tại Hà Nội.
Tại cuộc họp nhiều đại biểu cho rằng, nguyên nhân chính và chủ yếu gây ra lũ lụt tại khu vực miền Trung, Tây Nguyên trong thời gian vừa qua là do ảnh hưởng của bão và áp thấp nhiệt đới gây mưa lớn. Nhiều nơi lũ vượt mức lịch sử, gây thiệt hại nặng nề đối với một số tỉnh ở khu vực này.
Báo cáo của Tập đoàn Điện lực Việt Nam và của chủ đầu tư các nhà máy thủy điện trong khu vực này cho thấy, việc vận hành các hồ chứa thủy điện lớn ở khu vực miền Trung đã thực hiện đúng theo quy trình vận hành liên hồ chứa và quy trình của từng hồ đã được phê duyệt, không gây thêm lũ cho hạ du. Thậm chí các dự án thủy điện đã góp phần cắt giảm đỉnh lũ và lượng nước lũ về hạ du trên các sông mặc dù các hồ chứa này theo thiết kế không có nhiệm vụ chống lũ.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi Phạm Trường Thọ nhận định, các hồ chứa trên địa bàn tỉnh không xả lũ hay gây lũ nhân tạo khiến lũ chồng lũ trong đợt mưa lũ tại miền Trung vừa qua.
Trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có 3 hồ thủy điện đang khai thác và chuẩn bị khai thác gồm Hà Nang, Đăkdrinh, Nước Trong, đều để tràn tự do với mức 0,6-0,8 m và không xả lũ. Trong thời gian mưa lớn, hầu hết các hồ đều để tràn tự do, không xả nước để gây nên lũ nhân tạo, lũ chồng lũ. Tình trạng nước dâng đột ngột là do mưa quá lớn lại diễn ra trong thời gian ngắn.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam, Nguyễn Ngọc Quang cho biết, thời điểm xảy ra mưa lớn, hầu hết 73 hồ thủy lợi của tỉnh đều cho chảy qua tràn tự do, 3 hồ cho xả tràn, xả sâu với lưu lượng nhỏ. Đặc biệt, đối với 4 hồ thủy điện, tỉnh Quảng Nam giám sát chặt chẽ, có đường theo dõi quá trình lũ của từng hồ. Trong các thời điểm, mức nước xả đều thấp hơn mức nước đến các hồ. Cụ thể, lúc đỉnh điểm nước về hồ Đăk Mi 4 đạt 4.360 m3/giây, mức xả là 3.900 m3/giây, hồ A Vương 898 m3/giây, mức xả 871 m3/giây.
Minh chứng cho điều này, từ 5 giờ ngày 15/11/2013, lũ về hồ chứa của thủy điện Sông Tranh 2 nhanh. Trong 7 giờ đầu lưu lượng nước về hồ từ 291 m3/s đến 12 giờ 45 phút cùng ngày đạt đỉnh 8.333 m3/s (tương ứng với đỉnh lũ lớn nhất có chu kỳ lập lại khoảng 70 năm), lưu lượng xả tại thời điểm này là 2.115 m3/s. Theo báo cáo, trong 12 giờ đầu của trận lũ, hồ Sông Tranh 2 đã cắt/giảm được 63% lượng nước lũ… Như vậy hiệu quả cắt/giảm lũ của hồ là tích cực. Bên cạch đó, hồ chứa thủy điện Đăk Mi 4 cũng cắt được tới 10,6% lưu lượng đỉnh lũ; tại hồ chứa thủy điện Sông Ba Hạ cắt được 26% lưu lượng đỉnh lũ…
Giám đốc Trung tâm Khí tượng thủy văn Trung ương Bùi Minh Tăng khẳng định, trước khi thủy điện phát triển, trong lịch sử đã có rất nhiều trận lũ lớn như năm 1999 hoặc 2009. Vì vậy, không thể cứ có lũ lớn là đổ lỗi cho hồ thủy điện được. Cơn bão số 15 vừa qua diễn ra từ ngày 14 - 17/11/2013 đã xuất hiện mưa lũ lớn, thậm chí là rất lớn với lượng mưa từ 200 đến gần 1.000 mm và xảy ra trên diện rộng. Những cơn mưa liên tiếp thời gian qua đã khiến tổng lượng nước dồn vào các hồ quá lớn.
Theo ông Bùi Minh Tăng, mặc dù trước mỗi trận bão, hầu hết các hồ thủy điện, thủy lợi đều được lệnh xả bớt đưa mực nước xuống thấp hơn bình thường để chuẩn bị tích nước cắt lũ nhưng nếu nước về vượt quá sức chứa của hồ thì buộc phải xả tràn để giữ đập. Tuy nhiên, việc xả tràn của hồ bao giờ cũng thấp hơn lưu lượng nước về. “Vì vậy, hồ thủy điện chỉ góp phần giảm lũ chứ không thể gây lũ”, ông Tăng nhấn mạnh.
Ông Bùi Minh Tăng còn cho biết với địa hình miền Trung có độ dốc cao, các hồ thủy lợi, thủy điện trong khu vực thường có dung tích nhỏ, ít khả năng chống chọi với mưa lớn cục bộ và chức năng điều tiết nước không cao đối với hạ du.
Phát biểu kết luận cuộc họp, Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng cho rằng, theo báo cáo của các địa phương thời gian vừa qua, các chủ hồ cơ bản đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật trong vận hành các hồ chứa thủy điện. Tuy nhiên cũng phải thừa nhận chỉ trong một thời gian ngắn chúng ta đưa các quy trình này vào thực hiện khi các nội dung phê duyệt liên quan đến các quy trình đó không phải là hoàn toàn lý tưởng. “Do đó, trong thời gian tới, cần xem xét kỹ hơn quy trình vận hành, đặc biệt là vận hành liên hồ chứa; trong đó có hồ chứa thủy điện, thủy lợi. Nếu phát hiện sai sót, Bộ sẽ yêu cầu bổ sung, chỉnh sửa”, Bộ trưởng nhấn mạnh.
Riêng đợt lũ vừa qua, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng yêu cầu, Tổng cục Năng lượng và Cục An toàn môi trường, Cục Điều tiết điện lực và Tập đoàn Điện lực Việt Nam rà soát lại việc thực hiện quy trình vận hành các hồ chứa, nếu phát hiện trường hợp nào sai phạm sẽ có biện pháp xử lý nghiêm. “Thậm chí nếu vi phạm gây ra hiệu quả nghiêm trọng phải có biện pháp xử lý phù hợp với pháp luật và chuyển cho cơ quan chức năng giải quyết”, Bộ trưởng đề xuất.
Quang Toàn