Trầm tư, nhà thơ Vũ Quần Phương nhớ lại những cái Tết ngày thơ ấu: Ngày Tết, bà tôi nấu cơm trong cái niêu bé tí, hai bà cháu ăn. Tôi chẳng chơi với ai, cũng chẳng có ai mà chơi. Các anh các em con bác, con chú bắng tuổi tôi ở cạnh nhà nhưng cũng ít sang chơi. Tôi muốn sang bên đó thì bà bảo: ”Sang làm gì, chúng nó có bố có mẹ, con mồ côi, con ở nhà chơi với bà”.
Thế là tôi ở nhà. Mà chuyện với bà thì chán lắm. Tôi hỏi: “Bà ơi! hôm nay ăn cơm với gì?”. Bà trả lời: “Ăn với mồm”. Thế là hết chuyện. Nhưng có đứa nào rủ tôi đi chơi thì bà lại bảo: “Theo chúng nó lêu lổng hư người đi. Bố con ngày xưa không đi chơi đâu thì mới học nên người”. Tôi lại ngồi thừ cạnh bà. Trời tối dần. Tối từ các góc nhà hoang vắng rồi tối ra ngoài sân. Có khi chả cần thắp đèn. Hai bà cháu rì rầm một lúc rồi đi ngủ. Tôi cứ tha thủi theo bà như cái bóng. Tôi hay sợ, hay khóc và luôn luôn ngơ ngác.
Có hôm chú tôi đi xa về mang thứ quả lạ lắm xếp đầy một đĩa to sang cúng ở bàn thờ bố tôi, tôi chờ cho cháy hết hương để chú hạ lễ, chú cho quả. Nhưng chú hạ lễ, lại mang cả về. Tôi hỏi bà tôi: “Các thứ cúng trên bàn thờ bố cháu có phải của bố cháu không?”. Bà trả lời: “Hỏi dớ dẩn. Trước cúng sau ăn, chứ bố mày ăn thế nào được mà xí phần”. Tôi đành im, nhưng cứ buồn buồn. Tôi nhìn lên bức hình bố tôi. Đây là tấm hình thợ truyền thần tận thị xã Nam Định vẽ lại từ tấm ảnh chụp bố mẹ bế tôi... Sau tấm ảnh chụp đó còn có chữ bố tôi đề bằng mực tím: Ảnh chụp năm Tân Tỵ, Chúc lên một… Tối đó chú tôi mang sang cho tôi một miếng quả đã gọt vỏ. Tôi hỏi bà tôi: Bà có ăn không. Bà tôi bảo bà không thích thứ quả ấy. Tôi chần chừ không dám ăn. Bà lại bảo cháu ăn đi, không sợ đâu. Bà không thích cái mùi của nó, tôi cắn nhè nhẹ, thấy ngon. Tôi ăn hết vẫn còn thèm. Ngửi đầu ngón tay còn thấy mùi thơm của quả.
Hồi tôi về làm việc ở Bộ Y tế, cái Tết đầu tiên tôi ở bộ là lên rừng. Năm ấy Bộ trưởng y tế Phạm Ngọc Thạch, vốn ở độc thân, vợ con sơ tán về Pháp cả, rủ Tổng cục trưởng lâm nghiệp Nguyễn Tạo lên ăn Tết với công nhân một lâm trường ở Yên Bái. Vừa đi thăm vừa kiểm tra cấp cứu phòng không. Xe đi ban ngày. Dịp Tết, ta và địch có thỏa thuận ngừng chiến. Đường khá đông xe. Cầu phao, bến phà hối hả làm việc. Đường lên miền cao thì càng đi càng thưa vắng. Qua một bến phà tự kéo, thấy có hai anh công an. Hỏi mới biết họ được giao nhiệm vụ trực tại đây đón hai bộ trưởng. Ông Thạch chúc Tết họ và khuyên họ về luôn đi. Ông nói: Không có gì đáng lo đâu. Cứ về đi, về đi!
Tôi, chuyến ấy được ông vụ trưởng gọi vào phòng, dặn dò: Cậu phải luôn luôn ở bên bộ trưởng, ông ấy nói gì thì ghi lấy, để về vụ làm. Đừng bỏ sót. Ông Thạch ra thăm rừng, tôi cũng thăm rừng. Ông Thạch vào phòng uống nước tôi cũng theo vào. Quyết không bỏ sót lời nào của bộ trưởng, mặc dù chưa thấy lời nào là nhiệm vụ cả. Ông Thạch, hình như cũng thấy bất thường, lúc chỉ có hai người, ông hỏi nhỏ tôi: Sao anh cứ đi gần tôi - Anh Nghi bảo phải đi gần - Để làm gì? Ông Thạch vẫn tiếp tục hỏi nhỏ. Tôi rành rọt: Để ghi những lời anh dặn về cho vụ làm. Ông Thạch nhìn tôi ngạc nhiên: Hình như anh mới về bộ? Vâng em về từ tháng 5. Ông Thạch cười, nhẹ nhàng: Thôi được, có gì cần làm, tôi sẽ nói với anh, anh cứ tự nhiên. Thế là tôi thoát và ông ấy cũng thoát. Tôi tự trách mình máy móc quá hóa đần độn!
Một cái Tết đáng nhớ nữa trong cuộc đời tôi là cái Tết đầu tiên trên đất Mỹ. Năm ấy đi sang chơi với các con, tôi viết thư cho bè bạn dự tính: Chắc phải ở lại Mỹ, sau Tết mới về được. Nhà thơ Trần Đăng Khoa, người đã có một số năm ăn Tết ở Nga, “meo” (email) lại an ủi: “Bác nên ở lại, đón một cái Tết mình ở nước ngoài để biết nó vô vị và nhạt nhẽo đến chừng nào!”.
Cuốn lịch tờ treo trong nhà không có ngày âm, tôi lấy bút chì chú thêm ngày âm vào chủ nhật mỗi tuần, dù bên này chả dùng gì đến ngày âm lịch. “Tháng mười cơm mới rồi đây”- Có lần xem lịch, tôi reo lên như vậy, chả hiểu reo hay than, nhưng trong giọng nói hình như có chút gì của nỗi lòng đến nỗi con tôi thảng thốt hỏi: “Thế thì sao cơ ạ?”. Nhắc đến cơm mới thì thanh niên Hà Nội bây giờ cũng chả hiểu, nói gì lũ bên này. Tôi nhắc đến cũng là nhắc cho hoài niệm. Nửa thế kỷ nay chả còn tục này nữa.
Hương vị Tết ở Mỹ với nhiều người Việt Nam là hình ảnh chiếc bàn thờ gia tiên lung linh hương nến. Những năm kháng chiến tản cư, sơ tán, tổ tiên cũng trầm luân theo con cháu. Nơi thờ các cụ thành lập chớp nhoáng và lâm thời, trên nóc tủ, trên xích đông... Đơn sơ nhưng đầm ấm đèn nhang ba ngày Tết. Đất nước yên bình. Rồi đổi mới, chỗ ăn chỗ ở khang trang, bàn thờ gia tiên đặt nơi trang trọng nhất của căn nhà, có người để ở tầng cao nhất, có người để nơi con cháu họp mặt. Nhiều loại bàn thờ, tủ chè, sập gụ, rồi các đồ đồng, tam sự ngũ sự, đồ sứ, độc bình bát hương... xuất hiện, trở lại nét xưa thành kính trong nhiều gia đình Việt Nam.
Những cái Tết vắng tiếng cười, tiếng bi bô của trẻ nhỏ, của sự sum vầy không xa lạ đối với nhà thơ Vũ Quần Phương. |
Tôi là con trưởng, bố mẹ không còn, Tết nhất nỗi niềm thương cha nhớ mẹ chỉ biết gửi lên nén hương ngọn nến. Năm sang Mỹ, ở nhà con, nghĩ mãi một mình rồi cũng phải bàn với chúng nó lập bàn thờ gia tiên cúng Tết. Các gia đình Việt ở Mỹ, chỉ nhà nào có các cụ cao niên và đông con cháu lại ở vùng có đông người Việt mới có bàn thờ gia tiên cố định. Nhưng cũng đơn giản. Một sự gá lắp vào không gian nội thất của căn nhà xây dựng thống nhất theo thiết kế Mỹ. Còn các gia đình của lứa dưới 50, hai thế hệ, ít thấy có bàn thờ. Ngày Tết, họ thắp hương ngay trên bàn ăn khấn vái. Tàn hương, nhấc bát hương đi là ngồi quây vào ngay chiếc bàn đó.
Xong bữa ăn là xong Tết. Tôi muốn dùng mặt lò sưởi phòng khách làm nơi thờ cúng. Mặt lò sưởi quá hẹp, các con tôi khuyên chọn chiếc com - mốt 4 tầng ngăn kéo, trên gác, có mặt rộng để còn bầy cỗ. Tôi đã bày lên tấm ảnh cha mẹ, lọ hoa tươi vừa mua ngoài siêu thị Mỹ, chọn một cốc sứ màu gan gà đổ gạo vào làm bát cắm hương. Hương Thái Lan, nén mảnh, thơm ngào ngạt nhưng không phải hương trầm. Nhìn khói hương bay và hai cây nến mầu bập bùng cháy trên đôi chân nến, tôi như nhập được vào cái không gian thành kính quen thuộc của chốn thờ cúng gia tiên ở quê nhà. Cỗ Tết không nhiều món, nhưng những món chính: bánh chưng, giò chả, giò lụa, giò thủ đều có, canh măng, nem rán, thịt gà, gà trại chứ không phải gà công nghiệp, súp lơ, dưa hành... May mắn mời được năm người khách Việt là tiến sĩ, là sinh viên đang làm, đang học ở đây, đến dự. Người đã ở hơn chục năm, người mới sang hè vừa qua. Những kỷ niệm Tết của từng người ngẫu nhiên dẫn chúng tôi về nhiều vùng của đất nước. Thân mật, đầm ấm, ai cũng vui, một cái vui mỏng manh, dễ vỡ…
Có nhiều cái Tết đã đi qua trong cuộc đời, nhưng thú thật là mỗi năm Tết đến đủ đầy viên mãn, có giây phút vẫn lặng buồn, nhớ mẹ, nhớ tuổi thơ, nhớ căn nhà cũ nát của bà nội ở đất thành Nam yêu dấu. Có thể tôi là người xưa cũ, nhưng đó là những ký ức giúp mình sống hạnh phúc...