Gần 30 tham luận của các nhà nghiên cứu, các nhà sử học đã đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ cuộc đời, sự nghiệp, công trạng, vai trò của Lưu Đình Chất trong lịch sử dân tộc, từ đó, nghiên cứu đề xuất các giải pháp bảo tồn, phát huy các giá trị di sản về ông trong bối cảnh hiện nay, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
Danh nhân Lưu Đình Chất (1566-1627) sinh ra và lớn lên trong gia tộc lớn họ Lưu ở Thanh Hóa, từng thi đỗ đại khoa và làm quan triều Lê Trung Hưng. Tuy nhiên tài liệu lịch sử, cũng như phả ký của dòng họ viết về ông không nhiều, nên hiểu biết về ông còn rất hạn chế.
Theo sử liệu, danh nhân Lưu Đình Chất là con trai của Lâm Quận công Lưu Đình Thường (Thưởng). Ông cũng là hậu duệ đời thứ 21 của Thái sư Lưu Cơ. Ông đỗ đạt khá muộn, năm 42 tuổi, Lưu Đình Chất tham gia thi Đình, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sỹ xuất thân (Hoàng giáp), ông được phong chức Đô cấp sự trung (chức quan đứng đầu một cơ quan trong sáu khoa giúp việc sáu bộ thời Lê - Trịnh).
Thảo luận về sự kiện đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời, sự nghiệp của Lưu Đình Chất, đó là khoa thi năm Đinh Mùi (1607), Tiến sỹ Lê Quang Chắn, Phó Viện trưởng Phụ trách Viện Sử học Việt Nam, cho rằng đặt trong bối cảnh chung của nền giáo dục, khoa cử Nho học ở Đàng Ngoài thời Lê Trung Hưng, khoa thi năm Đinh Mùi (1607) cũng tuân thủ đầy đủ các quy định của thời bấy giờ, không có nhiều khác biệt. Điểm nhấn đáng chú ý là, khoa thi này đã lựa chọn và lấy đỗ 5 vị đại khoa, trong số đó, Hoàng giáp Lưu Đình Chất là nhân vật nổi trội nhất, cả về con đường làm quan cũng như công lao, đóng góp với quê hương, đất nước. Ông xứng đáng là danh thần lương đống, vị Tể tướng nổi danh thời Lê Trung Hưng đầu thế kỷ XVII .
Sau khi đỗ Hoàng giáp (1607), Lưu Đình Chất đảm nhận công việc ở Bộ Lại, đến năm 1613 thăng chức Tự khanh, tước Nhân Lĩnh bá. Làm quan trong triều, Lưu Đình Chất đã thể hiện tài ngoại giao xuất chúng. Năm 1616, ông được cử làm Chánh sứ sang nhà Minh. Đây không chỉ là sự kiện lớn trong sự nghiệp làm quan của Lưu Đình Chất, mà còn ảnh hưởng đến mối quan hệ với quốc gia láng giềng. Trong chuyến đi này Lưu Đình Chất bằng tài ngoại giao khéo léo đã chú trọng gia tăng tình hòa hiếu với không chỉ nhà Minh, mà còn mở rộng giao hảo với sứ thần Cao Ly. Sau khi đi sứ trở về, Lưu Đình Chất được thăng lên chức Hữu Thị lang Bộ Lại, tước hầu...
Lưu Đình Chất sống, làm quan trong giai đoạn đất nước xảy ra nhiều biến động chính trị và nội chiến giữa các thế lực phong kiến. Cuộc chiến diễn ra giữa triều đình Lê - Trịnh với nhà Mạc kéo dài dai dẳng nhiều năm. Sau đó, xung đột Trịnh - Nguyễn lại ngày càng căng thẳng… Những xung đột chính trị, tranh giành quyền lực không chỉ khiến đời sống nhân dân khổ cực, mà bản thân những nho sĩ đương thời cũng không khỏi “tâm tư”. Với tinh thần thương dân, mùa đông năm Mậu Ngọ (1618) quan đại thần Lưu Đình Chất lại dâng lên chúa Trịnh Tùng tờ khải Sửa đức để dẹp điềm tai dị.
Các tham luận tại hội thảo cũng khẳng định, Lưu Đình Chất là một vị đại quan có tài, lại rất thanh liêm, một lòng phụng sự triều đình. Các bài khải của Lưu Đình Chất đã thể hiện rõ tấm lòng lo lắng đau đáu đối với thời cuộc, về vận mệnh của đất nước, đặc biệt về cuộc sống hằng ngày của những người dân lao khổ trên mọi miền. Những kiến nghị thẳng thắn, không e dè của ông đã phần nào có tác dụng tích cực với tầng lớp thống trị, khiến An Bình Vương Trịnh Tùng phải suy nghĩ, tìm cách thay đổi phương thức quản lý vương triều cho phù hợp với bối cảnh xã hội đương thời…
Đánh giá về Lưu Đình Chất, nhà sử học Phan Huy Chú trong sách Lịch triều hiến chương loại chí đã dành sự khen ngợi: “Từ đời Hoằng Định đến Dương Hòa, Thịnh Đức là lúc triều đình lắm việc, phải sửa chính ở trong, dẹp loạn ở ngoài… Ông Lưu Đình Chất ở Quỳ Chử bày tỏ mưu hay, bổ ích rất nhiều”.
Năm 1614, Tiến sĩ Lưu Đình Chất được ban chức Dinh điền Chánh sứ vùng biển Giao Thuỷ, Nam Định, đã xuất tiền đắp đê, lấn biển, lập ra 12 làng, trong đó có hai làng Hạ Cát (xã Hồng Thuận) và Diêm Điền (xã Bình Hoà), huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định.
Với nhiều đóng góp quan trọng, Lưu Đình Chất được triều đình phong kiến Lê - Trịnh thăng Đô ngự sử, rồi Tá lý công thần, Thượng thư Bộ hộ, Tham tụng (Tể tướng), Thiếu bảo tước Phúc Quận công. Danh nhân Lưu Đình Chất còn là một nhà thơ lớn, ông đã để lại 19 bài thơ cận thể trong “Toàn Việt thi lục”. Năm 1627 ông mất, thọ 62 tuổi, được truy tặng Thiếu sư.
Ông được thờ phụng tại đình Đông Khê, nhà thờ họ Lưu ở thôn Đông Khê, xã Hoằng Quỳ (huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa) và tại 2 cụm di tích cấp quốc gia đền - chùa Hà Cát và Diêm Điền (huyện Giao Thuỷ, Nam Định). Đình Đông Khê và lăng mộ ông được xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 1993.