Cần một chương trình đột phá thể chế tạo khí thế mới

Báo Tin Tức xin giới thiệu bài phát biểu của Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Vũ Tiến Lộc tại Hội nghị Thủ tướng với doanh nghiệp năm 2014.

Doanh nghiệp phải tái cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng


Trong gần 3 thập niên vừa qua, đặc biệt là 10 năm trở lại đây, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ. Thực hiện tinh thần của Hiến pháp bảo đảm quyền tự do kinh doanh của người dân, Luật Doanh nghiệp và nhiều đạo luật quan trọng khác đã tạo điều kiện cho sự ra đời của hàng trăm ngàn doanh nghiệp dân doanh. Các doanh nghiệp nhà nước đang trong tiến trình đổi mới. Ngày càng nhiều nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam.

Ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.


Cho đến nay, trong nền kinh tế nước ta đã có trên 500 ngàn doanh nghiệp đang hoạt động, trong số đó có trên 3 ngàn doanh nghiệp nhà nước, gần 8 ngàn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, còn lại phần lớn (97-98%) là doanh nghiệp dân doanh. Cộng đồng doanh nghiệp đông đảo này đang đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động và tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, góp phần quan trọng đưa nền kinh tế nước ta vượt khỏi tình trạng một nước nghèo để đứng vào hàng ngũ các nước có thu nhập trung bình - một thành tựu quan trọng bậc nhất của công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta những năm qua.

Nhưng cộng đồng doanh nghiệp, nhất là khu vực doanh nghiệp dân doanh đang đứng trước một giai đoạn khó khăn nhất của mình. Sau một thời gian phát triển chủ yếu theo chiều rộng, khi môi trường kinh doanh trong nước và quốc tế có nhiều khó khăn, những yếu kém nội tại của cộng đồng doanh nghiệp đang bộc lộ ngày càng rõ. Nhiều doanh nghiệp buộc phải rời khỏi thị trường: số lượng doanh nghiệp phá sản, giải thể, ngừng hoạt động trong mấy năm gần đây rất lớn.

Ba mươi năm cải cách với các cơ hội kinh doanh bùng nổ, đặc biệt là trong các lĩnh vực khai thác tài nguyên, bất động sản, tài chính ngân hàng… đã giúp không ít doanh nhân tích lũy được nhiều của cải. Nhưng chúng ta vẫn chưa tạo ra được một thế hệ các nhà công nghiệp gắn liền tên, tuổi và sự nghiệp với sự hình thành và phát triển của các thương hiệu lớn và các cụm ngành công nghiệp quốc gia, vươn ra được thế giới, cạnh tranh ngang ngửa với các đối tác quốc tế.

Không chỉ thiếu những doanh nghiệp dẫn đầu, mà Việt Nam còn thiếu cả một khu vực đủ lớn các doanh nghiệp cỡ vừa, đủ sức tiếp cận với công nghệ mới và trở thành đối tác của các tập đoàn xuyên quốc gia, tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu. Cho đến thời điểm hiện tại, trong số hơn 500 ngàn doanh nghiệp đang hoạt động, các doanh nghiệp cỡ lớn chỉ chiếm khoảng 2% và cũng ngần ấy phần trăm các doanh nghiệp cỡ vừa. Còn lại 95-96% là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ.

Riêng doanh nghiệp siêu  nhỏ (với tiêu chí của ta là dưới 10 lao động) đã chiếm tới 66-67%. Nếu tính cả các hộ kinh doanh cá thể đang hoạt động trong nền kinh tế thì tỷ lệ doanh nghiệp siêu nhỏ có thể chiếm tới trên 99,9%…. Nói một cách hình ảnh, theo các nhà kinh tế, “đội thuyền thúng” doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước thách thức phải ra biển lớn khi thời điểm hội nhập lớn của đất nước đang cận kề (hoàn thành cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015, Hiệp định thương mại Việt Nam – EU dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2014 và Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) cũng đang trong quá trình đàm phán nước rút).

Yêu cầu có tính chất sống còn của cộng đồng doanh nghiệp là phải tái cấu trúc, phải đổi mới mô hình tăng trưởng. Doanh nghiệp Việt Nam phải lớn lên về quy  mô, cao hơn về công nghệ, vươn tới các chuẩn mực quốc tế về quản trị để đủ sức tham gia vào các chuỗi cung ứng toàn cầu và tạo ra được các thương hiệu và chuỗi cung ứng của chính các doanh nghiệp Việt. Đường lối của Đảng, Hiến pháp sửa đổi đã được Quốc hội thông qua, Thông điệp đầu năm của Thủ tướng và các Nghị quyết của Chính phủ mới đây đã nêu yêu cầu đột phá đổi mới thể chế để mở đường và yểm trợ các cho các doanh nhân trong nỗ lực chuyển mình để trụ vững và phát triển.

Cộng đồng doanh nghiệp rất phấn khởi trước Thông điệp của Thủ tướng và mục tiêu của Chính phủ với quyết tâm trong 2 năm 2014 - 2015 phải thực hiện cổ phần hóa hơn 432 doanh nghiệp nhà nước và tập trung cải thiện môi trường kinh doanh, đẩy mạnh cải cách, giảm thời gian và chi phí thực hiện thủ tục hành chính, bảo đảm công khai minh bạch, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, phấn đấu đến năm 2015 đạt mức trung bình của các nước ASEAN 6. Với mục tiêu này, Chính phủ đã đặt ra nhiệm vụ gương mẫu đi đầu trong việc vươn tới chuẩn mực quốc tế.

Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp

Niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp đang được khơi dậy từ kết quả bước đầu ổn định kinh tế vĩ mô và động thái cải cách thể chế quyết liệt của Thủ tướng và Chính phủ. Để tiếp tục góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp, VCCI đã tập hợp nhóm kiến nghị chủ yếu của cộng động doanh nghiệp với Thủ tướng như sau:

1. Một là, về hệ thống pháp luật về kinh doanh chúng tôi kiến nghị cần tiếp tục đổi mới để bảo đảm quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng của doanh nghiệp. Tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp trong việc thành lập, thực hiện các hoạt động đầu tư, kinh doanh và rút khỏi thị trường. Chúng tôi cũng đề nghị có biện pháp khuyến khích các đơn vị kinh doanh phi chính thức chuyển thành doanh nghiệp và hoạt động trong khu vực chính thức để bảo đảm minh bạch, bài bản và góp phần tăng nhanh số lượng doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, hướng tới mục tiêu nước ta có 1 triệu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả trong vòng 10 năm tới.

Cần sửa đổi Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư theo hướng thông thoáng hơn nữa, bảo đảm quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm;  chúng tôi đề nghị bỏ yêu cầu ghi ngành nghề kinh doanh trong giấy chứng nhận đăng ký kinh đăng ký kinh doanh; bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án đầu tư.

Đồng thời với việc bảo đảm khung khổ pháp luật bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được quy định trong Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, đề nghị ban hành Luật quản lý sử dụng vốn Nhà nước vào sản xuất kinh doanh để chế định các điều kiện pháp luật bảo đảm quyền sở hữu và  sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm doanh nghiệp nhà nước chỉ hoạt động trong những ngành nghề cần thiết do nhà nước quy định.

Chúng tôi đề nghị sau khi ban hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư sửa đổi sắp tới phải, thực hiện ngay việc tổng rà xét các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Lao động, Luật Công nghệ cao, Luật kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở...vv để bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với các quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư. Loại bỏ những văn bản pháp lý chồng chéo, đặc biệt là chồng chéo về thủ tục hành chính và ngăn chặn cho được tình trạng ban hành các giấy phép con dưới mọi hình thức, cản trở quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp.

Trên cơ sở đó, cần ban hành sớm Luật sửa đổi một số điều của toàn bộ hệ thống pháp luật liên quan đến doanh nghiệp và ban hành một nghị định để sửa nhiều nghị định liên quan nhằm loại bỏ ngay các bất cập chồng chéo, tháo gỡ kịp thời cho doanh nghiệp mà không phải chờ lịch xếp hàng sửa đổi luật của Quốc hội và lịch sửa đổi nghị định của Chính phủ.

Đề nghị Quốc hội ban hành Luật doanh nghiệp nhỏ và vừa, Chính phủ có các chương trình trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa,  hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để các đơn vị kinh doanh phi chính thức chuyển thành pháp nhân doanh nghiệp và trợ giúp các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ có tiềm năng phát triển thành doanh nghiệp vừa và lớn. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tư nhân đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước để có thể có các doanh nghiệp dân doanh lớn nhanh về mặt quy mô.

2. Về chính sách tài khóa, chúng tôi đề nghị thực hiện phương châm khoan sức cho doanh nghiệp tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể trụ vững và phục hồi trong thời gian 2-3 năm trước mắt. Theo phương châm này, đề nghị Chính phủ kiến nghị Quốc hội rút ngắn lộ trình giảm thuế thu nhập doanh nghiệp xuống 20% với doanh nghiệp lớn và 18% với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Xem xét giảm thuế giá trị gia tăng cho một số ngành hàng. Rà soát, bãi bỏ các loại phí không còn phù hợp, chuyển một số loại phí thực hiện theo chế độ giá dịch vụ, chấn chỉnh hoạt động thu phí và lệ phí trái quy định, giảm gánh nặng cho người dân và doanh nghiệp.

Tiến tới xây dựng Luật phí và lệ phí thống nhất. Thời gian qua, theo phản ánh của các doanh nghiệp, mặc dù nghĩa vụ nộp thuế của doanh nghiệp có giảm bớt  nhưng các loại phí, lệ phí và các khoản đóng góp lại tăng cộng thêm tình trạng tận thu của cơ quan thuế đã làm tăng chi phí, giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp.

Mặt khác, cũng theo phản ánh của các doanh nghiệp, để được hưởng các khoản ưu đãi về thuế, doanh nghiệp phải vượt qua các thủ tục và điều kiện rất phức tạp cho nên khó thực thi. Đề nghị nghiên cứu đơn giản hóa các thủ tục và điều kiện để các biện pháp ưu đãi cho doanh nghiệp có thể đi vào cuộc sống.

3. Về chính sách tín dụng, chúng tôi đề nghị  cần được tiếp tục tháo gỡ theo hướng cải thiện điều kiện tiếp cận tín dụng cho doanh nghiệp. Thời gian qua, Chính phủ đã thành công trong việc kiểm soát lạm phát, đồng thời các ngân hàng đã giảm mạnh lãi suất cho vay. Lãi suất đã xuống tương đối thấp  trong tương quan với mức lạm phát kỳ vọng (đặc biệt là các chương trình cho vay ưu đãi).Tuy nhiên, do chưa xử lý được vấn đề nợ xấu và điều kiện cho vay còn ngặt nghèo, nên nhiều doanh nghiệp vẫn không thể tiếp cận được vốn ngân hàng và nhất là không thể tiếp cận được với mức lãi suất quy định vì phải trả thêm các khoản chi phí không chính thức.

Để cải thiện tình hình này, đề nghị tiếp tục đơn giản hóa thủ tục và điều kiện cho vay, thực hiện những hình thức cho vay mới  như cho vay theo các chuỗi sản xuất và cung ứng, phát triển hình thức bảo lãnh tín dụng qua Ngân hàng Phát triển Việt Nam và mạng lưới quỹ bảo lãnh tín dụng cần được tổ chức ở tất cả các cấp, mở rộng hình thức cho vay tín chấp, cho vay theo dự án sản xuất kinh doanh chứ không chỉ dựa vào tài sản thế chấp, khẩn trương đưa quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa vào hoạt động, phát triển các quy đầu tư mạo hiểm, quỹ tiên phong.

Chính phủ cũng cần cân nhắc các kế hoạch phát hành trái phiếu để tạo áp lực buộc các ngân hàng phải tìm biện pháp đẩy mạnh cho vay đối với khu vực doanh nghiệp. Khuyến khích các ngân hàng thương mại dành tỷ lệ tín dụng thích đáng cho vay đối với khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa.

4. Về chính sách công nghệ, chúng tôi đề nghị cần định hướng giúp các doanh nghiệp tạo ra bước bứt phát, đi tắt, đón đầu để đạt tới trình độ công nghệ tiên tiến trong khu vực. Xây dựng được hàng rào công nghệ để bảo đảm lựa chọn công nghệ phù hợp trong thu hút đầu tư nước ngoài, trong nhập khẩu công nghệ, trong chính sách hỗ trợ nghiên cứu đổi mới và ứng dụng công nghệ. Phát triển Quỹ khoa học công nghệ, khuyến khích đầu tư Nghiên cứu và Phát triển (R&D) tại các doanh nghiệp. Đẩy mạnh phát triển thị trường công nghệ, gắn kết giữa các viện nghiên cứu, trường đại học với các hiệp hội doanh nghiệp và doanh nghiệp. Xây dựng các quỹ đầu tư đổi mới công nghệ, tăng cường công tác thông tin, tư vấn về công nghệ cho các doanh nghiệp đặc biệt là khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Có chính sách cụ thể khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đầu tư vào công nghệ cao, phát triển công nghiệp hỗ trợ và thực hiện chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp Việt Nam. Rà xét các chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp FDI để đảm bảo áp dụng chính sách và điều kiện ưu đãi tương tự cho các doanh nghiệp trong nước đầu tư, nghiên cứu, đổi mới và dứng dụng công nghệ mới.

5. Về chính sách thị trường: Ngoài những hạn chế về quyền kinh doanh các doanh nghiệp FDI được quy định theo các điều ước quốc tế về mở cửa thị trường, chúng tôi đề nghị phải bảo đảm trên thực tế sự bình đẳng của khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa tư nhân với các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp lớn và khu vực FDI trong tiếp cận các nguồn lực, đất đai, tín dụng, các dự án đầu tư công và mua sắm. Mặc dù luật pháp, chính sách không có sự phân biệt, nhưng có sự phân biệt trên thực tiễn đã hạn chế cơ hội phát triển của khu vực doanh nghiệp  nhỏ và vừa tư nhân trong nước.

Chúng tôi đề nghị tăng cường công tác thông tin và tham vấn doanh nghiệp trong tiến trình đàm phán, tham gia các điều ước quốc tế đặc biệt là các hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU, Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) để có được sự tham gia và chuẩn bị tốt nhất từ phía cộng đồng doanh nghiệp.

Bên cạnh các nỗ lực mở cửa, thâm nhập thị trường thế giới rất cần quan tâm thỏa đáng tới việc bảo vệ thị trường nội địa, thực hiện những biện pháp phòng vệ thương mại cần thiết như biện pháp chống bán phá giá, hàng rào vệ sinh dịch tễ, quy tắc xuất xứ…  để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp và người tiêu dùng Việt Nam. Hiện nay, công việc này theo nhận định của doanh nghiệp đang là khâu rất yếu.

Phải triển khai đồng bộ các biện pháp ngăn chặn có hiệu quả các hiện tượng gian lận thương mại, đặc biệt là tình trạng buôn lậu qua biên giới. Xem xét sửa đổi quy chế mậu dịch tiểu ngạch để ngăn chặn làn sóng hàng nhập lậu cạnh tranh không lành mạnh với hàng hóa sản xuất trong nước, đặc biệt là của khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Một trong những biện pháp phát triển thị trường trong điều kiện hội nhập là hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn xuyên quốc gia, gắn kết khu vực FDI với khu vực doanh nghiệp trong nước, phát triển công nghiệp hỗ trợ gắn với việc xây dựng các cụm công nghiệp, các chuỗi cung ứng.

Để làm được việc này, cần xây dựng và thực hiện chương trình phối hợp hành động của các cơ quan chính phủ, các tập đoàn xuyên quốc gia, các doanh nghiệp lớn và các hiệp hội, trong đó các hiệp hội ngành hàng có vai trò rất quan trọng.

Đề nghị thí điểm xây dựng và thực hiện chính sách hỗ trợ và ưu đãi (về thuế, tín dụng, khoa học và công nghệ, lao động…) theo chuỗi, cụm ngành thay vì chính sách hỗ trợ từng ngành và doanh nghiệp riêng lẻ. Đẩy mạnh các chương trình đạo tạo, kết nối cho các cụm ngành, nâng cao vai trò của các hiệp hội ngành hàng trong các chuỗi liên kết.

Tiếp tục cải tiến quy trình đấu thầu các công trình mua sắm và đầu tư công theo hướng quy định tỷ lệ bắt buộc dành cho hàng hóa và nguồn cung từ trong nước, đặc biệt từ các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

6. Về quan hệ lao động: Chúng tôi đề nghị, tiếp tục giãn tiến độ tăng tiền lương tối thiểu ít nhất trong 2 năm (2014-2015), với mức tăng được ấn định tối đa trên cơ sở tỷ lệ lạm phát cộng với tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm, bảo đảm mức tăng tiền luơng phù hợp với nhịp độ tăng năng suất lao động và có thể dự tính được để giảm bớt gánh nặng tăng chi phí quá nhanh cho doanh nghiệp.

Chúng tôi cũng đề nghị sửa đổi quy định về thời gian làm thêm đối với người lao động trong Luật Lao động với mức tăng từ 200 giờ lên 300 giờ theo thỏa thuận của người lao động với chủ sử dụng lao động, phù hợp với tính chất và yêu cầu công việc của từng ngành nghề (đặc biệt là đối với các lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao) và phù hợp với thông lệ và quy định pháp luật của các nước trong khu vực, bảo đảm được sức cạnh tranh của thị trường lao động nước ta. Dù luật Lao động vừa mới sửa đổi nhưng vẫn có thể sửa đổi những  điều khoản cụ thể hợp lý như vậy trong một Luật chung sửa đổi một số điều của các luật liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp như đã đề cập ở phần trên.

Để tăng cường các thiết chế đối thoại xây dựng quan hệ lao động hài hòa ở nước ta, chúng tôi đề nghị Chính phủ có quyết định công nhận VCCI và các hiệp hội doanh nghiệp ngành nghề và địa phương là đại diện chính thức cho giới sử dụng lao động ở Việt Nam trong quan hệ ba bên về lao động. Điều này phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của VCCI, của các hiệp hội doanh nghiệp và cũng phù hợp với thông lệ quốc tế và xu hướng chung của tổ chức giới chủ toàn cầu.

7. Về cải cách thủ tục hành chính và cải cách tư pháp: Thủ tục hành chính trong nhiều lĩnh vực theo đánh giá của doanh nghiệp vẫn còn rườm rà và gây khó cho hoạt động của doanh nghiệp. Chúng tôi đề nghị tiếp tục thực hiện gói giải pháp được đề ra trong Đề án 30, đơn giản hóa thủ tục, giảm chi phí và thời gian thực hiện thủ tục hành chính của tất cả các bộ, ngành đạt mức trung bình của các nước ASEAN 6. Thực hiện tin học hóa quy trình thực hiện thủ tục hành chính giữa doanh nghiệp và cơ quan công quyền, trước hết là trong các lĩnh vực có nguy cơ nhũng nhiễu cao như đăng ký thành lập doanh nghiệp, thuế, hải quan, đất đai, đầu tư, xây dựng… bảo đảm đồng bộ hóa các cơ sở dữ liệu và quy trình tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và góp phần phòng chống tham nhũng.

Đề nghị công bố bộ thủ tục hành chính liên quan đến doanh nghiệp trên cơ sở rà xét, loại bỏ trùng lặp giữa Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư và các luật chuyên ngành. Tiến tới xây dựng Bộ Luật thống nhất về thủ tục hành chính liên quan đến doanh nghiệp.

Cải cách hành chính đã quan trọng, cải cách tư pháp còn quan trọng hơn. Kết quả điều tra PCI của VCCI mấy năm qua cho thấy sự yếu kém của các thiết chế pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của doanh nghiệp là một trong những điểm quan ngại hàng đầu của doanh nghiệp. Sự chậm chễ, hiện tượng oan sai trong xét xử, việc hình sự hóa các quan hệ kinh tế và hiệu lực thi hành các phán quyết của tòa án không nghiêm phát đi một tín hiệu về yêu cầu tăng cường cải cách tư pháp thời gian tới để nâng cao năng lực của các cơ quan xét xử và bảo đảm thi hành án, nâng cao niềm tin và sự dấn thân của doanh nghiệp vào sự nghiệp kinh doanh.

8. Về việc tăng cường đối thoại hợp tác giữa các cơ quan chính quyền và doanh nghiệp, nâng cao vai trò và trách nhiệm của VCCI và các hiệp hội doanh nghiệp trong việc cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế, chúng tôi đề nghị, cuộc gặp Thủ tướng với cộng đồng doanh nghiệp sẽ được tổ chức thường niên.

Trên cơ sở Nghị quyết 19 và Kết luận của Thủ tướng, sau hội nghị này đề nghị Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 19: Chương trình 2 năm Đột phá thể chế tạo ra một khí thế mới, tái khởi động khu vực doanh nghiệp góp phần bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ kinh tế - xã hội 2014 – 2015 và tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững và nâng cao năng lực canh tranh quốc gia và doanh nghiệp.

Trong thời gian tới, theo chỉ đạo của Thủ tướng, VCCI sẽ phối hợp với các hiệp hội doanh nghiệp thực hiện vai trò tham gia, giám sát và thúc đẩy thực hiện chương trình hành động này thông qua các khảo sát và nghiên cứu độc lập việc định kỳ 3 tháng 1 lần công bố ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp đối với việc thực hiện chương trình hành động của các bộ, ngành, địa phương, phản ánh kịp thời khó khăn, vướng mắc và kiến nghị của doanh nghiệp với Thủ tướng và các cơ quan Chính phủ, đồng thời, xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình.


Thu Hường - Minh Phương (lược ghi)
Tạo động lực cho doanh nghiệp phát triển
Tạo động lực cho doanh nghiệp phát triển

Sáng 28/4, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng chủ trì Hội nghị Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp, nhằm tăng cường kênh đối thoại giữa Chính phủ với cộng đồng doanh nghiệp về tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN