Theo trang Moneywise ngày 22/7, đó chính là thực tế quen thuộc hiện nay tại Mỹ - quốc gia dẫn đầu thế giới về sản lượng dầu nhưng lại thuộc số những nhà nhập khẩu dầu lớn nhất hành tinh.
Giá xăng đã bắt đầu giảm, khiến người dân Mỹ giảm bớt nỗi lo trong mùa du lịch hè, nhưng giá xăng vẫn cao khi dao động ở 4,4 USD/gallon trên toàn quốc.
Sau khi Tổng thống Mỹ Joe Biden đã không thể khiến Saudi Arabia gia tăng sản lượng dầu và sau khi Mỹ bán 5 triệu thùng dầu từ kho dự trữ sang châu Âu và châu Á, dư luận lại chú ý tới nghịch lý về tình trạng xuất nhập khẩu dầu của Mỹ.
Khi phải bỏ ra tới 75 USD để đổ đầy bình xăng ô tô, người Mỹ có thể khó chịu khi nhìn thấy dầu trong nước rời Mỹ nhanh hơn dầu nước ngoài được nhập vào. Đó là một thách thức có từ hàng thập kỷ qua và chỉ có bản chất của cuộc khủng hoảng đã thay đổi.
Mỹ là nhà sản xuất dầu hàng đầu thế giới (gồm dầu thô, sản phẩm dạng lỏng của dầu và nhiên liệu sinh học) kể từ năm 2018.
Theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ, tính đến năm 2021, Mỹ sản xuất 18,88 triệu thùng mỗi ngày, nhiều hơn 10 triệu thùng/ngày so với Saudi Arabia (10,84 triệu thùng) và Nga (10,78 triệu thùng). Saudi Arabia và Nga đứng thứ hai và ba về sản xuất dầu.
EIA cũng lưu ý rằng Mỹ là nước tiêu thụ dầu lớn nhất khi sử dụng 20,54 triệu thùng mỗi ngày, tương đương 20% trữ lượng toàn cầu. Con số này vượt xa con số của Trung Quốc (14,01 triệu thùng). Theo báo cáo của EIA, Mỹ đã nhập khẩu 7,86 triệu thùng dầu mỗi ngày vào năm ngoái.
Vì vậy, nếu Mỹ đang sản xuất lượng dầu tương đương với lượng dầu mà nước này nhập khẩu và quan tâm nhiều hơn đến năng lượng tái tạo, thì lẽ ra Mỹ phải không phụ thuộc nhiều vào dầu nước ngoài và lẽ ra không phải lo ngại về giá năng lượng vì dự trữ của Mỹ khá nhiều.
Tuy nhiên, thực tế lại không như thế vì có mối liên hệ giữa dầu và chính trị. Các lý do khiến Mỹ có chênh lệnh giữa nhập và xuất khẩu dầu thực sự khá đơn giản.
Thứ nhất, dầu nước ngoài rẻ hơn. Chi phí khai thác dầu thường thấp hơn ở các nước khác.
Công ty nghiên cứu năng lượng tư nhân Rystad Energy đã phát hiện ra trong một phân tích năm 2020 rằng các mỏ dầu ở Trung Đông có chi phí sản xuất thấp nhất thế giới: 31 USD/thùng. Dầu từ các giếng nước sâu của Mỹ có chi phí sản xuất mức 43 USD/thùng, còn dầu sản xuất bằng công nghệ fracking (nứt vỡ thủy lực) có chi phí 44 USD/thùng.
Thứ hai, năng lượng là một vũ khí. Giá dầu thường chịu tác động từ các biện pháp bảo vệ môi trường, từ yếu tố kinh tế và địa chính trị.
Một số mối quan tâm có ảnh hưởng lớn hơn những mối quan tâm khác. Ví dụ như xung đột giữa Nga và Ukraine hiện nay.
Cuộc xung đột này cuối cùng đã khiến Tổng thống Biden ký lệnh cấm nhập khẩu dầu Nga, nhưng không rõ lệnh cấm này có tác động tới Nga hay không. Trong khi đó, châu Âu đang bấp bênh về khả năng tiếp cận nguồn dầu quan trọng của Nga trước mùa đông.
Thứ ba, không phải tất cả các loại dầu đều giống nhau. Đây là một thách thức cơ bản đối với Mỹ - nơi chủ yếu xử lý dầu thô nặng, khó tinh chế mà Mỹ nhập khẩu từ Trung Đông và các nơi khác. Ngành dầu của Mỹ không thể tinh chế loại dầu thô ngọt nhẹ đặc trưng ở Oklahoma, Texas và những nơi khác.
Viện Dầu mỏ Mỹ cho biết chuyển đổi cơ sở hạ tầng của Mỹ theo hướng lọc dầu thô ngọt nhẹ có thể gây ra biến động đáng kể trên thị trường và gây nguy hiểm cho các khoản đầu tư khổng lồ hiện nay.
Nỗ lực chuyển đổi này luôn bị đình trệ vì gặp áp lực từ các cuộc biểu tình về môi trường hoặc gặp các rào cản chính trị khác. Hầu hết tin rằng tình hình hiện tại sẽ không thay đổi cho đến khi Mỹ tăng thêm công suất lọc dầu hoặc chuyển đổi để có thể xử lý dầu do chính mình sản xuất. Chi phí để thay đổi như vậy sẽ rất lớn.