Quyết định của quốc hội mở đường cho Chính phủ Nhật Bản thực hiện chính sách mở cửa chào đón lực lượng lao động trình độ thấp từ nước ngoài. Đây được coi là bước chuyển đổi lớn trong chính sách việc làm của Nhật Bản bởi lâu nay quốc gia này chỉ cấp thị thực làm việc cho những đối tượng lao động tay nghề cao và có trình độ chuyên môn như bác sĩ, luật sư hay giáo viên.
Hệ thống cấp thị thực cho người lao động nước ngoài sẽ có hiệu lực từ tháng 4/2019, bao trùm 14 lĩnh vực, trong đó có xây dựng, canh tác nông nghiệp và điều dưỡng. Đây là những lĩnh vực thiếu hụt lao động nghiêm trọng trong bối cảnh dân số Nhật Bản ngày càng già đi trong khi tỷ lệ sinh tiếp tục giảm sút.
Phát biểu trong một cuộc họp báo ngày 7/12, người phát ngôn chính phủ Nhật Bản Yoshihide Suga tái khẳng định việc phê chuẩn dự luật là rất quan trọng trong bối cảnh vấn đề thiếu hụt nhân lực đang ngày càng trở nên bức thiết. Một khi có hiệu lực, luật này sẽ cho phép hàng trăm nghìn lao động nước ngoài tới Nhật Bản nên chính phủ dự định tới cuối năm nay sẽ hoàn tất soạn thảo các biện pháp liên quan tới môi trường làm việc và các biện pháp giúp người lao động có thể sớm thích nghi và hòa nhập với cộng đồng sở tại.
Tuy nhiên, các đảng đối lập chỉ trích dự luật này chưa nêu cụ thể các loại hình việc làm mà người lao động nước ngoài sẽ được tiếp nhận và cho rằng nội dung còn quá chung chung nên dự luật này sẽ trao quyền tự quyết chi tiết cho chính phủ. Nhóm phản đối cũng bày tỏ hoài nghi về việc liệu Nhật Bản đã chuẩn bị đầy đủ để tiếp nhận sự thay đổi lớn này chưa khi đề cập tới chương trình thực tập kỹ thuật mà quốc gia này từng triển khai với ý định chuyển giao công nghệ cho các quốc gia đang phát triển nhưng lại bị chỉ trích là tạo vỏ bọc cho các công ty tìm kiếm nguồn lao động giá rẻ.
Theo hệ thống thị thực mới, người lao động nước ngoài sẽ được tiếp nhận theo hai loại thị thực. Loại 1 không đòi hỏi người lao động có trình độ học vấn và kinh nghiệm cao, trong khi loại 2 dành cho nhóm làm việc cần kỹ năng cao hơn. Để có được thị thực loại 1, có giá trị tối đa 5 năm, người lao động phải vượt qua các bài kiểm tra tiếng Nhật và kỹ thuật. Những người đã trải qua chương trình thực tập kỹ thuật kéo dài hơn 3 năm có thể đăng ký xin thị thực loại này mà không cần phải thực hiện các bài kiểm tra. Tuy nhiên, những người lao động trong nhóm này sẽ không được phép đưa gia đình tới Nhật Bản. Đây là điểm mà phe chí trích cho là gây ra vấn đề nhân quyền.
Loại thị thực thứ 2 có mức khung yêu cầu cao hơn. Người lao động phải vượt qua bài kiểm tra kỹ năng cấp độ cao và được phép đưa gia đình đi cùng, số lần gia hạn thị thực cũng không bị hạn chế, từ đó mở ra cơ hội định cư tại Nhật Bản. Thị thực loại 1 sẽ được cấp cho nhóm lao động thuộc 14 lĩnh vực, trong khi loại 2 dự kiến sẽ chỉ giới hạn trong hai lĩnh vực gồm xây dựng và đóng tàu. Trước mắt, nhiều khả năng các nhóm xin thị thực loại 2 sẽ chưa phải thực hiện các bài kiểm tra vì dự kiến sẽ không có nhiều đơn xin cấp thị thực loại này. Chính phủ Nhật Bản ước tính với thị thực loại 1, quốc gia này sẽ tiếp nhận tối đa 47.750 người lao động trong năm đầu tiên luật có hiệu lực và tối đa 345.150 người lao động sau 5 năm trong đó có 60.000 lao động trong lĩnh vực điều dưỡng.
Tính tới tháng 10/2017, số người lao động nước ngoài làm việc tại Nhật Bản đạt mức kỷ lục mới 1,28 triệu người. Trong đó, những người lao động nước ngoài có nguồn gốc Nhật Bản và là cư dân vĩnh viễn chiếm đa số (459.000 người), tiếp đến là các sinh viên và những người lao động làm việc bán thời gian (297.000 người) và đứng thứ 3 là các thực tập sinh công nghệ (258.000 người). Giới chuyên gia nhận định Thủ tướng Shinzo Abe đang gấp rút thúc đẩy dự luật này trước khi các cuộc bầu cử quan trọng diễn ra vào năm 2019 với hy vọng sẽ thu hút thêm sự ủng hộ từ giới kinh doanh và từ các khu vực đang phải vật lộn với tình trạng thiếu lao động.