Theo bà Hà Thu Giang, tín dụng tiếp tục tập trung vốn cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh, tăng cao hơn nhiều so với cùng kỳ của 2 năm đại dịch COVID-19, phù hợp với đóng góp và tăng trưởng của các ngành kinh tế trong GDP.
Trong đó, tín dụng ngành nông lâm thủy sản tăng 7,31%; ngành công nghiệp và xây dựng tăng 7,42%; ngành thương mại và dịch vụ tăng 10,72%. Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng tín dụng cao cũng xuất hiện ở một số ngành như: Công nghiệp chế biến chế tạo; xây dựng; bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác; thông tin và truyền thông; hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ; hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ; hoạt động dịch vụ khác.
Tín dụng các lĩnh vực ưu tiên tăng trưởng tốt, một số lĩnh vực tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng tín dụng chung, phù hợp với định hướng của Chính phủ và NHNN. Cụ thể: Lĩnh vực nông nghiệp nông thôn tăng 8,41%, chiếm tỷ trọng 24,79% tổng dư nợ toàn nền kinh tế; doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 7,67%, chiếm 20,17%; xuất khẩu tăng 6,54%, tiếp tục tập trung vào nhóm hàng công nghiệp, chế biến, chế tạo - chiếm khoảng 54,9%; lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ tăng 13,15%; doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng 10,74%.
“Đáng chú ý, tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro tiếp tục được kiểm soát. Theo đó, tín dụng vào chứng khoán giảm 28,7%; tín dụng đối với các dự án giao thông BOT (Xây dựng - Vận hành - Chuyển giao), BT (Xây dựng - Chuyển giao) giao thông giảm 1,72%. Tuy nhiên, tín dụng bất động sản lại tăng 14,69% và cho vay phục vụ đời sống tăng 14,99%”, đại diện Vụ Tín dụng các ngành kinh tế - NHNN cho biết.
Đề cập về điều hành chính sách tiền tệ thời gian qua, ông Phạm Chí Quang, Phó Vụ trưởng phụ trách Vụ Chính sách tiền tệ NHNN cho biết: Trước những tác động của tình hình thế giới và các chính sách tài chính tiền tệ của các nước đến nền kinh tế Việt Nam và tình hình nội tại của nền kinh tế trong nước, để thực hiện các mục tiêu đặt ra, NHNN quyết định điều chỉnh các mức lãi suất, có hiệu lực từ ngày 23/9.
Theo đó, NHNN quyết định tăng lãi suất tái cấp vốn từ 4,0%/năm lên 5,0%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 2,5%/năm lên 3,5%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với tổ chức tín dụng (TCTD) từ 5,0%/năm lên 6,0%/năm.
Từ ngày 23/9, lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng từ mức 0,2%/năm lên 0,5%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng từ 4,0%/năm lên 5,0%/năm, riêng lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng VND tại Quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô từ 4,5%/năm lên 5,5%/năm…
Thực hiện chủ trương của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế phục hồi sau đại dịch, NHNN sẽ vận động các TCTD đổi mới công nghệ, tăng hiệu quả quản trị, cắt giảm chi phí để giữ ổn định mặt bằng lãi suất cho vay và nghiên cứu giảm lãi suất ở một số lĩnh vực ưu tiên.
Đề cập về việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) tăng lãi suất với tốc độ nhanh, mạnh hơn, Phó Vụ trưởng phụ trách Vụ Chính sách tiền tệ NHNN cho biết: Trong quý III/2022, tỷ giá và thị trường ngoại tệ chịu nhiều áp lực do thị trường quốc tế diễn biến phức tạp, khó lường, nguy cơ suy thoái gia tăng (áp lực lạm phát toàn cầu gia tăng; đồng USD quốc tế tăng giá mạnh; xu hướng tăng lãi suất của các ngân hàng Trung ương trên thế giới; căng thẳng Nga – Ukraine,…). Trong bối cảnh đó, NHNN tiếp tục chủ động điều hành tỷ giá, phù hợp, phối hợp đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ khác nhằm ổn định thị trường ngoại tệ, góp phần kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
Bối cảnh kinh tế, tiền tệ thế giới bất định và những thách thức khiến điều hành chính sách tiền tệ thời gian tới sẽ rất khó khăn trong việc vừa phải kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, vừa hỗ trợ phục hồi kinh tế. Do đó, NHNN sẽ tiếp tục theo dõi sát, thích ứng với các diễn biến thị trường trong và ngoài nước, điều hành linh hoạt, thận trọng và phối hợp đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ và phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa, các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiềm chế lạm phát, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi kinh tế.
Điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến lạm phát và thị trường trong và ngoài nước; tiếp tục chỉ đạo TCTD giảm chi phí hoạt động để giảm lãi suất cho vay; điều hành tăng trưởng tín dụng khoảng 14%, hỗ trợ phục hồi kinh tế nhưng không chủ quan với rủi ro lạm phát; chỉ đạo TCTD hướng dòng vốn vào sản xuất kinh doanh để tạo động lực tăng trưởng bền vững, hạn chế tín dụng vào lĩnh vực rủi ro. Điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp nhằm ổn định tỷ giá và thị trường ngoại tệ, góp phần thực hiện kiểm soát lạm phát nhập khẩu.
Để đẩy mạnh triển khai hỗ trợ lãi suất, NHNN thành lập các đoàn kháo sát liên ngành để đánh giá và đôn đốc triển khai tại các ngân hàng thương mại và các địa phương; tổ chức các Hội nghị kết nối ngân hàng - doanh nghiệp tại các tỉnh, thành phố, tháo gỡ khó khăn liên quan đến triển khai hỗ trợ lãi suất.
Theo một số chuyên gia kinh tế, kinh tế Việt Nam đang phục hồi tích cực, GDP 6 tháng đạt 6,42%; lạm phát bình quân 8 tháng 2,58%; tỷ lệ lạm phát của Việt Nam cũng là một trong những nước thấp nhất thế giới. Dự báo năm 2022, GDP tăng 6,7 - 8,5%; lạm phát dưới 4%. NHNN điều hành thận trọng, linh hoạt chính sách tiền tệ; mặt bằng lãi suất và tăng trưởng tín dụng hợp lý để hỗ trợ phục hồi kinh tế nhưng không chủ quan với rủi ro lạm phát, hướng tín dụng vào sản xuất kinh doanh, kiểm soát chặt tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, điều hành tỷ giá linh hoạt.
Thời gian qua, các tổ chức quốc tế cũng đánh giá cao điều hành của NHNN, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ đúng, trúng; phản ứng chính sách linh hoạt, thận trọng, kịp thời, có tính dự báo cao và chủ động, hấp thu tốt trước các biến động của tình hình thế giới, qua đó góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức khi nền kinh tế vừa hồi phục sau đại dịch COVID-19. Từ đó tạo được niềm tin của người dân, nhà đầu tư đối với điều hành của Chính phủ, NHNN và môi trường đầu tư tại Việt Nam.
Theo NHNN, dự kiến đến cuối năm 2022, FED sẽ đưa lãi suất mục tiêu lên trên 4% và tiếp tục duy trì mức lãi suất này đến hết năm 2023. Diễn biến lạm phát thế giới và điều hành của FED gây áp lực lớn lên tâm lý nhà đầu tư, dòng vốn rút ra tạo áp lực mất giá lớn đối với đồng tiền của các quốc gia mới nổi (trong đó có Việt Nam).
Đến sáng ngày 20/9, so với cuối năm 2021, các đồng tiền mất giá mạnh so với USD: TWD (-13,5 %); THB (-11,95%); JPY (-25,18%); KRW (-17,57%); PHP (-13,65%); MYR (-9,67%); INR (-7,44%); CNY (-10,9%); EUR (-13,49%); GBP (-20,02%). Đồng tiền Việt Nam là một trong những đồng tiền mất giá ít nhất so với các nước trong khu vực và trên thế giới (khoảng gần 4%).