Từ đảo tiền tiêu đến vùng núi cao Bạch Long Vỹ là đảo xa bờ nhất trong vịnh Bắc Bộ, có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, an ninh - quốc phòng và chủ quyền quốc gia. Hiện trên đảo có trên 1.000 người dân địa phương cùng với bộ đội và các lực lượng vũ trang khác. Ngoài ra, còn có khoảng 500 ngư dân thường xuyên cư trú trong khu neo đậu tàu. Tuy nhiên, từ nhiều năm nay, nguồn nước trên đảo Bạch Long Vỹ rất khan hiếm, được người dân ví như “vàng trắng”. Trong khi đảo luôn có nhu cầu nước ngọt khoảng 210 m3/ngày nhưng lượng nước trên đảo chủ yếu dựa vào hai giếng khoan tập trung chỉ đạt 15 m3/ngày. Lượng nước này là quá ít so với nhu cầu của người dân toàn đảo.
Anh Nguyễn Văn Hậu, dân cư Khu Thanh niên xung phong, huyện đảo Bạch Long Vỹ (Hải Phòng) cho biết, người dân cũng tự đào giếng, vào mùa mưa thì có nước dùng nhưng mỗi khi mùa khô đến, tình trạng thiếu nước lại diễn ra gay gắt. Người dân phải mua nước ngọt với giá từ khoảng 150.000 đồng/m3, tính cả công vận chuyển. Còn những ngư dân trên biển nhiều khi phải mua nước ngọt qua các thương lái với giá 200.000 - 300.000 đồng/m3, thậm chí có lúc còn không có nước để mua.
Các cán bộ Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia bàn giao công trình nước tại đảo Bạch Long Vỹ. |
Nhưng anh Hậu cũng như cán bộ quân, dân trên đảo Bạch Long Vỹ đã đón nhận niềm vui mới, khi Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia đã khảo sát và tìm được thêm 2 mũi khoan mới với tổng lưu lượng khoảng 75 m3/ngày vào cuối năm 2017. Hiện trung tâm đã giao cho Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Bắc xây dựng trạm cấp nước sạch lấy nguồn nước từ 2 giếng khoan trên cấp về bể chứa của huyện để phục vụ ăn uống sinh hoạt cho quân và dân trên đảo Bạch Long Vỹ. Cùng với hồ chứa nước ngọt dung tích 60.000 m3 đang được UBND TP Hải Phòng đầu tư xây dựng, năm 2018 hứa hẹn sẽ là năm “hết khát” của hòn đảo tiền tiêu này.
Ông Triệu Đức Huy, Phó tổng giám đốc Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia cho biết, không chỉ đảo Bạch Long Vỹ, trung tâm cũng đã điều tra và khai thác nguồn nước tại các đảo, cụm đảo như Cô Tô - Vĩnh Thực; Vân Đồn; Hòn Khoai, đảo Trần... “Tìm kiếm nguồn nước ở đảo khó khăn nhất là khâu vận chuyển, máy móc, thiết bị đều phải chở bằng tàu ra. Nếu sóng to, gió lớn, anh em phải ăn trực nằm chờ cả tháng trời mới chuyển ra được. Trong số các đảo, Bạch Long Vỹ và đảo Trần là gian nan và thách thức nhất vì diện tích đảo nhỏ, khó khăn trong tìm kiếm nước”, ông Huy cho hay.
Cùng với tuyến biển đảo, các vùng núi cao cũng in dấu chân của các kỹ sư Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia. Cao nguyên đá Hà Giang, vùng đất được mệnh danh là “miền đá khát”, với diện tích chủ yếu là núi đá vôi và đá tai mèo, quanh năm thiếu nước. Bằng sự tận tâm, những người kỹ sư thầm lặng đã tìm được nguồn nước cho bà con, giúp hồi sinh vùng cao nguyên đá này.
Niềm vui vô bờ bến ngày tìm được nguồn nước Anh Nguyễn Văn Tuyến, Đoàn tài nguyên nước Đông Bắc (Thuộc Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia) là một trong những kỹ sư tham gia điều tra và thi công tìm nước tại đảo Bạch Long Vỹ vừa qua. Anh Tuyến cho biết, tìm nguồn nước tại đảo Bạch Long Vỹ khá gian nan. Đảo có diện tích nhỏ (2,5 km2) và dốc nên nguồn nước mưa thường chảy nhanh ra biển mà không đọng lại nhiều tạo nguồn nước mặt để bổ sung cho nguồn nước ngầm. Đảo cũng không có các ao, hồ, sông suối lớn để chứa nước mặt thường xuyên.
“Xác định nơi có nguồn nước đã khó, nhưng việc khoan thăm dò, tìm nước mới thật sự gian nan. Có những khi mưa bão chúng tôi phải chờ cả tháng trời máy móc mới chuyển ra đến nơi. Đặc biệt, quá trình khoan phải dùng nước ngọt và phải thực hiện vào mùa khô, nước phải chở từ đất liền ra, do đó, mọi công đoạn phải thực hiện rất chính xác vì mỗi một mũi khoan hỏng sẽ phải đợi rất lâu để có thể tiếp tục. Với điều kiện khó khăn nên thi công tại các đảo sẽ mất thời gian gấp đôi, gấp ba so với bình thường”, anh Tuyến chia sẻ.
Là người đã tìm nguồn nước tại không ít vùng biển đảo Việt Nam, vậy nhưng kỷ niệm “nhớ đời” nhất của anh Tuyến chính là say sóng. Đó là lần đầu anh ra khảo sát tại đảo Vĩnh Thực, gặp đúng dịp sóng to. “Lần đầu bị say sóng mềm người, ra đến đảo là nằm vật ra không ăn được gì, thế nhưng sau đi nhiều thành quen, dạn dày dần với sóng gió”, anh Tuyến kể.
Anh Nguyễn Văn Tuyến (ngồi giữa) cùng đồng nghiệp kiểm tra mẫu khoan. |
Khi được hỏi công việc chủ yếu ở vùng núi xa xôi, hải đảo, có khi phải xa nhà hàng tháng trời thì mọi việc trong gia đình sẽ ra sao? Anh Tuyến cười hiền, vì nhiệm vụ rồi nên việc nhà cũng phải bố trí, vợ con anh hiện sống ở quê cùng ông bà nên cũng không quá vất vả. “Nhiều khi con ốm đau mà mình không ở nhà được cũng cảm thấy buồn, thế nhưng mỗi khi đi làm, tìm được nguồn nước, thấy bà con mừng vui mình cũng thấy tự hào và thêm yêu mến công việc đang làm”, anh Tuyến chia sẻ.
Trong số các kỹ sư tại trung tâm, anh Đoàn Công Nga được đánh giá là kỳ cựu nhất, hơn 20 năm trong nghề, anh Nga không nhớ nổi mình đã đặt chân đến bao nhiêu vùng đất khó khăn của Tổ quốc, từ miền núi đến hải đảo. Anh Nga kể, hạnh phúc lớn nhất trong cuộc đời làm nghề của anh có lẽ là vào năm 2007, khi tìm ra nguồn nước tại Mèo Vạc sau gần 10 năm tìm kiếm. Từ trước đến nay, người dân Mèo Vạc chủ yếu sống dựa vào nguồn nước mưa, việc tìm ra nguồn nước ở núi đá vôi tưởng như là chuyện trong mơ. Ngày đó, việc đi lại không thuận tiện như bây giờ, để lên được địa điểm cần tìm nước thì phải mất vài ngày, còn xe chở máy khoan và các dụng cụ máy móc đi kèm thì phải mất nửa tháng, thậm chí có những khi gần đến nơi thì phải dừng để làm đường mới đi tiếp được vì chưa có đường vào đến những vùng để tìm kiếm.
“Để khoan thăm dò trên núi đá vôi khó khăn vô cùng, chúng tôi phải chuyển nước từ thành phố Hà Giang lên, vừa khoan phải vừa khống chế địa tầng nếu không sạt lở như chơi, còn chuyện vỡ mũi khoan, đứt cần khoan thì không phải là chuyện hiếm. Mỗi lần như thế phải “cứu” mũi khoan hàng tháng trời”, anh Đoàn Công Nga nhớ lại.
Hơn 10 năm kiên trì, thử nghiệm hết nơi này đến nơi khác, hết mũi khoan này đến mũi khoan khác, cuối cùng, công sức của anh Nga và đồng nghiệp đã được đền đáp. Mũi khoan tại Pả Vi (Mèo Vạc) đã tìm thấy nước với lượng nước bơm lên ổn định, có thể khai thác 314 m3 nước mỗi ngày, đảm bảo nước sinh hoạt cho bà con. “Hôm đó, người dân bản mừng khôn xiết, ùa đến hứng nước uống và tắm luôn tại chỗ khoan. Anh em trong trung tâm thì nghẹn ngào không nói nên lời, niềm vui quá đỗi to lớn”, anh Nga vẫn không giấu nổi xúc động kể.
Cuộc sống của người cán bộ điều tra nước nay đây, mai đó, mỗi năm thời gian được ở cùng gia đình chẳng được bao nhiêu. Vợ con ốm đau cũng không có thời gian ở nhà chăm sóc. Năm 2006, khi anh Nga đang thi công tìm nguồn nước ở Đồng Văn (Hà Giang) thì nhận được điện thoại của vợ thông báo sắp lên bàn đẻ. Đường sá khó khăn nên hôm sau anh mới về đến bệnh viện để nhìn mặt con. Hay có những thời điểm con nhỏ, vợ ốm nặng, anh phải nhờ người nhà đưa 3 mẹ con về quê ngoại chăm sóc. “Những chuyện như thế, người “phu vàng trắng” như chúng tôi đều phải trải qua cả, nhưng mỗi lần tìm được một mũi khoan thành công thì mọi khó khăn đều tiêu tan”, anh Nga tâm sự.