Theo cáo trạng, năm 2019, thông qua bạn bè, Võ Duy Hưng quen biết với bà Lê Thị Mụi, là Giám đốc Công ty TNHH Nguyệt Phát (viết tắt là Công ty Nguyệt Phát). Hưng biết bà Mụi đang xin cấp giấy phép khai thác dự án mỏ cát tại xã An Thạnh Đông, huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng nên nói bản thân Hưng có các mối quan hệ, có thể xin được Giấy phép khai thác.
Bà Mụi và thành viên góp vốn Công ty Nguyệt Phát đồng ý ký biên bản thỏa thuận ngày 2/5/2019 với Hưng. Biên bản này có nội dung: Hai bên đã cùng nhau góp vốn, góp sức và thực hiện các thủ tục pháp lý có liên quan để xin cấp phép và khai thác khoáng sản mỏ cát tại tỉnh Sóc Trăng. Các bên thỏa thuận sau khi xin được giấy phép khai thác thì trừ hơn 38 tỷ đồng và 18 chỉ vàng 18K là vốn của bà Mụi. Phần giá trị còn lại sẽ được chia theo tỷ lệ, trong đó Hưng được 30%.
Thực tế, Hưng không góp vốn vào Công ty Nguyệt Phát. Sau khi ký biên bản thỏa thuận với Công ty Nguyệt Phát, Hưng không thực hiện công việc để xin cấp giấy phép khai thác đối với dự án mỏ cát tại tỉnh Sóc Trăng.
Đầu tháng 8/2022, Võ Duy Hưng quen bà Đinh Thị Bạch Tuyết (sinh năm 1965, ở Đà Nẵng). Khoảng giữa tháng 8/2022, vợ chồng bà Tuyết đến nhà Hưng tại quận Long Biên, Hà Nội chơi. Tại đây, Hưng giới thiệu bản thân là thành viên góp vốn tại Công ty Nguyệt Phát, định giá tài sản đầu tư của công ty là 160 tỷ đồng, Hưng sở hữu 35% tương đương 56 tỷ đồng. Ngoài ra, Hưng còn nói hiện Công ty Nguyệt Phát đang là chủ đầu tư dự án thăm dò khai thác khoáng sản cát tại Mỏ khu vực 1 và Mỏ khu vực 2 ở xã An Thạnh Đông, huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng. Công ty đang cần tìm nhà đầu tư, cần thành viên tham gia góp vốn để triển khai dự án.
Hưng giới thiệu với bà Tuyết, việc đầu tư sẽ mang lại nhiều lợi nhuận. Hưng chủ động thuyết phục bà Tuyết hợp tác kinh doanh, góp vốn vào Mỏ cát tại tỉnh Sóc Trăng. Để bà Tuyết tin, Hưng đã dẫn bà Tuyết đi xem mỏ cát.
Tin Hưng nói thật, ngày 31/8/2022, bà Đinh Thị Bạch Tuyết đã ký Hợp đồng hợp tác kinh doanh với Võ Duy Hưng. Hợp đồng do Hưng soạn sẵn với nội dung “Ngay sau khi ký kết hợp đồng này, bên B (bà Tuyết) sẽ chuyển phần góp vốn cho bên A (Hưng) là 10 tỷ đồng; ngay sau khi bên B góp vốn, bên A tiếp nhận và thực hiện ngay việc hoàn thiện hồ sơ… Thời hạn hợp tác và chấm dứt hợp đồng hợp tác là 6 tháng kể từ ngày hai bên ký kết là đạt được giấy phép khai thác và đưa vào hoạt động mỏ; Bên A cam kết trong thời hạn hợp đồng sẽ luôn tích cực triển khai để mục đích hợp tác đạt hiệu quả cao nhất và nhanh nhất”.
Để thực hiện hợp đồng, cùng ngày 31/8/2022, bà Tuyết nhờ con gái chuyển 10 tỷ đồng vào tài khoản của Võ Duy Hưng.
Sau khi ký Hợp đồng hợp tác kinh doanh, bà Tuyết không thấy Công ty Nguyệt Phát triển khai dự án. Bà Tuyết hỏi, Hưng cung cấp thông tin không rõ ràng nên bà Tuyết đến trụ sở Công ty tìm hiểu. Tại đây, bà Tuyết được biết Võ Duy Hưng không phải là thành viên góp vốn của Công ty Nguyệt Phát, không sở hữu 35% vốn góp tại Công ty như thông tin Hưng giới thiệu trước đó với bà Tuyết.
Khoảng tháng 11/2022, vợ chồng bà Tuyết ra nhà Hưng xin rút lại tiền góp vốn do hoàn cảnh khó khăn. Hưng đồng ý nhưng ra điều kiện để Hưng trả dần và tìm người góp vốn mới. Bà Tuyết nhiều lần gửi văn bản yêu cầu Hưng làm việc, trả tiền nhưng Hưng không trả. Do đó, ngày 5/5/2023, bà Tuyết đã làm đơn tố giác hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Võ Duy Hưng đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội.
Tại cơ quan điều tra, Võ Duy Hưng khai nhận hành vi phạm tội như trên. Hưng khai không góp vốn vào Công ty Nguyệt Phát. Sau khi ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với bà Tuyết, Hưng đã đi nộp hồ sơ xin cấp phép khai thác mỏ cát tại Sóc Trăng của Công ty Nguyệt Phát tại bộ phận một cửa của UBND tỉnh Sóc Trăng. Số tiền nhận của bà Tuyết, Hưng khai sử dụng một phần trả nợ cá nhân; phần còn lại để xin cấp phép khai thác dự án trên, nhưng Hưng không đưa ra được tài liệu nào để chứng minh.