Theo nhận định của Tiến sĩ Nicholas Mulder, Phó Giáo sư tại Đại học Cornell, tác giả của cuốn sách "Vũ khí kinh tế: Sự trỗi dậy của các biện pháp trừng phạt như một công cụ của chiến tranh hiện đại" (2022), đến nay gần 40 quốc gia đã áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với Nga kể từ khi xung đột ở Ukraine nổ ra vào tháng 2/2022. Quy mô của chiến dịch này là ít có tiền lệ trong lịch sử gần đây.
Các biện pháp trừng phạt gồm tài chính, năng lượng, công nghệ, du lịch, vận tải, hệ thống điện tử hàng không và hàng hóa nhằm vào một trong 10 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Sau hơn 1 năm áp đặt, các biện pháp trừng phạt đã gây thiệt hại cho nền kinh tế Nga và triển vọng tăng trưởng trong tương lai của nước này. Nhưng chúng đã không gây ra sự sụp đổ nền kinh tế của Nga cũng như không giúp chấm dứt xung đột ở Ukraine.
Tiến sĩ Mulder cho rằng, đã có rất nhiều sự tập trung vào việc sự thống trị của đồng đô la Mỹ tạo điều kiện thuận lợi cho các biện pháp trừng phạt tài chính của phương Tây như thế nào, trong khi một xu hướng đối kháng mạnh mẽ hầu như không được chú ý: sự trỗi dậy của các cường quốc kinh tế châu Á là nhân tố tạo điều kiện cho chuyển hướng thương mại làm giảm bớt tính hiệu quả của các biện pháp trừng phạt từ phương Tây.
Năm 2021, châu Á chiếm 39% GDP danh nghĩa toàn cầu, xuất khẩu của châu Á chiếm 36% xuất khẩu toàn cầu, trong khi 5 nền kinh tế lớn nhất châu Á gộp lại - Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và Ấn Độ - chiếm một phần tư tổng lượng nhập khẩu toàn cầu. Châu Á ngày nay chiếm 3/4 tăng trưởng GDP toàn cầu hàng năm.
Chiến dịch trừng phạt năm 2022 chống Nga của phương Tây cho thấy sự thiếu hiệu quả trước sức mạnh kinh tế đến từ châu Á. Các biện pháp trừng phạt nhằm vào Moskva, như một quan chức của Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ, nhằm gây "sốc và sợ hãi" về kinh tế. Tuy nhiên sau một cú sốc và cuộc khủng hoảng tài chính nhẹ ban đầu, Nga đã định tuyến lại phần lớn hoạt động thương mại của mình đối với các nền kinh tế châu Á và vượt qua các lệnh trừng phạt.
Các nền kinh tế châu Á đã đóng vai trò là điểm đến thay thế cho hàng xuất khẩu của Nga cũng như các nguồn nhập khẩu mới. Liên kết thương mại với Trung Quốc, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, các quốc gia vùng Vịnh và các nước Trung Á đã giúp Nga duy trì nền kinh tế.
Thương mại song phương giữa Nga và Trung Quốc tăng 29% vào năm 2022 và 39% trong quý đầu tiên của năm 2023. Giá trị thương mại song phương có thể đạt trên 230 tỷ USD vào cuối năm 2023 - lớn hơn tổng thương mại song phương của Trung Quốc với các nền kinh tế như Australia, Đức. Năm 2022, thương mại của Nga với Các Tiểu vương quốc Arập Thống nhất đã tăng 68%, trong khi thương mại với Thổ Nhĩ Kỳ tăng 87%. Thương mại Nga - Ấn Độ cũng tăng 205%, lên 40 tỷ USD.
Chuyển hướng xuất khẩu là "cứu cánh" cho doanh số bán năng lượng của Nga, chiếm một phần lớn trong thương mại của nước này. Tháng 1/2022, các nước châu Âu đã nhập khẩu 1,3 triệu thùng dầu mỗi ngày của Nga trong khi các khách hàng châu Á mua 1,2 triệu thùng. Đến tháng 1/2023, doanh số bán hàng của Nga sang châu Âu giảm xuống dưới 100.000 thùng mỗi ngày nhưng xuất khẩu sang châu Á tăng lên 2,8 triệu thùng.
Nhu cầu của châu Á đã thay thế cho sự sụt giảm xuất khẩu dầu sang châu Âu. Ấn Độ đã trở thành nước mua dầu thô vận chuyển bằng đường biển lớn nhất của Nga, mua hơn 1,4 triệu thùng mỗi ngày kể từ đầu năm 2023. Các nhà nhập khẩu Trung Quốc cũng mua từ 800.000 - 1,2 triệu thùng mỗi ngày vào năm 2022. Trong một năm, Ấn Độ, Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và các quốc gia vùng Vịnh đã thay thế hoàn toàn nhu cầu của châu Âu đối với xuất khẩu dầu của Nga.
Các nhà xuất khẩu châu Á cũng đã lấp đầy một phần khoảng trống do các nhà cung cấp thiết bị sản xuất tiên tiến và công nghệ cao của phương Tây để lại. Các công ty Trung Quốc hiện chiếm 40% doanh số bán ô tô mới và 70% doanh số điện thoại thông minh ở Nga. Việc phương Tây rút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngành công nghiệp ô tô trong nước của Nga, nhưng Moskva đã chuyển sang nhập khẩu ô tô đã qua sử dụng của châu Âu và Nhật Bản thông qua các nước thứ ba, trong đó ô tô mới chủ yếu đến từ Trung Quốc.
Trung Quốc (và Hồng Kông) đã trở thành những nhà cung cấp vi mạch chính mà Nga bắt đầu dự trữ trước khi xung đột ở Ukraine nổ ra. Trong năm 2022, các công ty Nga chuyển sang nhập khẩu chip cao cấp hơn, với giá trị nhập khẩu chất bán dẫn và vi mạch điện tử tăng 36% trong khoảng thời gian từ tháng so với năm 2021. Hiệu quả của các kênh nhập khẩu này về lâu dài chưa rõ sẽ như thế nào, nhưng trong ngắn hạn, các biện pháp kiểm soát xuất khẩu công nghệ của phương Tây đã không tạo ra "nạn đói" chip ở Nga.
Các đối tác thương mại của Nga trong Liên minh Kinh tế Á - Âu cũng đã đóng một vai trò trong việc vượt qua những hạn chế xuất khẩu công nghệ. Các nền kinh tế Trung Á đang hoạt động tích cực như những kênh nhập khẩu song song và thương mại quá cảnh. Ngân hàng Tái thiết và Phát triển châu Âu kết luận rằng trong khi thương mại của Nga với Mỹ, Anh và EU đã giảm đáng kể, thì "xuất khẩu của EU và Anh sang Armenia, Kazakhstan và Kyrgyzstan… đã tăng rõ rệt" theo một mô hình "phù hợp với quá trình định tuyến lại thương mại sang Nga".
Hiệu ứng định tuyến này qua Trung Á là đáng chú ý trong việc nhập khẩu máy móc và các sản phẩm khác. Tính đến tháng 10/2022, mức tăng xuất khẩu hàng năm sang Nga từ Trung Quốc, Belarus, Thổ Nhĩ Kỳ, Kazakhstan, Kyrgyzstan và Armenia gần bằng mức giảm xuất khẩu sang Nga của EU, Mỹ và Anh.
Bằng cách đóng vai trò là nhà cung cấp, khách hàng thay thế của nền kinh tế Nga trên thị trường toàn cầu, các nước châu Á đã giảm đáng kể tác động của các lệnh trừng phạt của phương Tây với Moskva. Trong khi các biện pháp trừng phạt đã làm giảm tiềm năng tăng trưởng của Nga, nền kinh tế của nước này đã được duy trì nhờ sự tái tổ chức thương mại lớn. Sự tham gia của Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore trong các biện pháp trừng phạt tài chính và công nghệ ít có tác dụng, một phần vì quan hệ thương mại giữa các quốc gia châu Á và Nga vẫn tiếp tục trong lĩnh vực sản xuất và năng lượng.
Tiến sĩ Mulder kết luận sức mạnh thương mại chống lại các biện pháp trừng phạt Nga của châu Á chủ yếu nằm ở Trung Quốc và Ấn Độ cũng như một số nền kinh tế Trung Đông và Trung Á và những thực tế địa kinh tế này dường như sẽ làm phức tạp thêm việc sử dụng các biện pháp trừng phạt của phương Tây trong tương lai.