Sơ chế sản phẩm cá ngừ xuất khẩu tại nhà máy của Công ty Cổ phần Bá Hải (Phú Yên). Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN
Lũy kế 9 tháng, kim ngạch xuất khẩu đã cán mốc 8,33 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Kết quả này không chỉ phản ánh sự hồi phục vững chắc của ngành thủy sản sau nhiều biến động, mà còn cho thấy khả năng thích ứng nhanh của doanh nghiệp trong bối cảnh thị trường thế giới nhiều biến động.
Trong cơ cấu sản phẩm, tôm tiếp tục giữ vững vị thế chủ lực khi mang về gần 410 triệu USD trong tháng 9, nâng tổng kim ngạch 9 tháng lên hơn 3,38 tỷ USD, tăng tới 20,3% so với cùng kỳ. Động lực tăng trưởng chủ yếu đến từ nhu cầu ổn định tại Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU và sự mở rộng đơn hàng ở các thị trường khu vực.
Cá tra cũng ghi dấu ấn khi đạt kim ngạch gần 191 triệu USD trong tháng 9, tăng 11%. Tính đến hết tháng 9, xuất khẩu cá tra đạt hơn 1,6 tỷ USD, tăng gần 10% so với cùng kỳ năm trước. Sự phục hồi mạnh mẽ từ các thị trường Trung Quốc, Hoa Kỳ và một số nước Trung Đông đã góp phần củng cố vị thế của cá tra Việt Nam trên bản đồ thủy sản toàn cầu.
Nhóm sản phẩm cá biển và mực, bạch tuộc cũng ghi nhận tăng trưởng ấn tượng. Trong 9 tháng, xuất khẩu cá biển khác đạt 1,61 tỷ USD (tăng 18,5%), mực - bạch tuộc gần 550 triệu USD (tăng 18,7%). Đặc biệt, nhuyễn thể có vỏ nổi bật với mức tăng hơn 30%, đạt 192 triệu USD. Ngược lại, cá ngừ giảm nhẹ 3,2%, còn 705 triệu USD, phản ánh sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt ở phân khúc cá đại dương.
Về thị trường, Trung Quốc (bao gồm Hong Kong) tiếp tục là điểm sáng. Dù xuất khẩu tháng 9 có giảm nhẹ, nhưng lũy kế 9 tháng vẫn tăng tới 32,1%, đạt 1,76 tỷ USD và chiếm thị phần lớn nhất. Thị trường này hấp dẫn nhờ nhu cầu tiêu thụ cao và lợi thế chi phí logistics. Ngược lại, tại thị trường Hoa Kỳ, doanh nghiệp Việt Nam đang chịu áp lực từ thuế chống bán phá giá và các quy định nghiêm ngặt của Đạo luật Bảo vệ động vật có vú biển (MMPA), khiến việc tiếp cận trở nên khó khăn hơn.
Trong khi đó, Nhật Bản và EU duy trì đà tăng ổn định; kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản 9 tháng đạt 1,27 tỷ USD (tăng 15,6%), thị trường EU đạt 885 triệu USD (tăng 13,3%). Đáng chú ý, Hàn Quốc nổi lên như thị trường tăng tốc khi tháng 9 tăng gần 50%, nâng tổng kim ngạch 9 tháng lên 645 triệu USD, tăng hơn 13% so với cùng kỳ. ASEAN và Trung Đông cũng trở thành những thị trường ngách giàu tiềm năng. Xuất khẩu sang ASEAN đạt 536 triệu USD (tăng 23,3%), Trung Đông gần 295 triệu USD (tăng 7,6%), riêng tháng 9 tăng tới hơn 50%.
Bà Lê Hằng, Phó Tổng thư ký Vasep phân tích, những con số ấn tượng trên cho thấy khả năng thích ứng và xoay chuyển linh hoạt của doanh nghiệp. Nhiều đơn vị đã đẩy mạnh xuất hàng trong giai đoạn trước khi một số chính sách thuế và rào cản kỹ thuật mới có hiệu lực, đồng thời chủ động cơ cấu lại thị trường, tăng tỷ trọng xuất khẩu sang châu Á và củng cố thị phần tại các thị trường truyền thống. Xu hướng đầu tư vào sản phẩm chế biến giá trị gia tăng, đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng và truy xuất nguồn gốc ngày càng chặt chẽ cũng giúp ngành giữ vững sức cạnh tranh, nhất là ở phân khúc trung và cao cấp.
Tuy nhiên, phía trước vẫn là một chặng đường nhiều thử thách. Thuế chống bán phá giá và thuế đối ứng tại Hoa Kỳ cùng một số thị trường khiến biên lợi nhuận ngày càng thu hẹp. Đạo luật Bảo vệ động vật có vú biển với các quy định nghiêm ngặt về khai thác gây áp lực lớn cho nhóm sản phẩm hải sản; trong khi "thẻ vàng" IUU của EU vẫn chưa được gỡ bỏ, ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín và chi phí xuất khẩu của thuỷ sản Việt Nam. Áp lực cạnh tranh từ các quốc gia trong khu vực như Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia hay Ecuador ngày càng tăng, đặc biệt ở mặt hàng tôm và cá tra cũng là thách thức không nhỏ với doanh nghiệp.
Sản phẩm tôm đông lạnh xuất khẩu của Tập đoàn thủy sản Minh Phú. Ảnh tư liệu: Vũ Sinh/TTXVN
Các chuyên gia cho rằng để duy trì đà tăng trưởng, ngành thủy sản cần chủ động theo dõi sát diễn biến thị trường và chính sách thương mại, kịp thời điều chỉnh chiến lược khi rào cản mới xuất hiện. Song song đó là tái cơ cấu thị trường, vừa giữ vững các thị trường chủ lực như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, vừa đẩy mạnh khai thác cơ hội tại ASEAN, Trung Đông và các thị trường ngách ít cạnh tranh hơn.
Đa dạng hóa sản phẩm và nâng cao giá trị gia tăng là yếu tố then chốt giúp thủy sản Việt Nam cạnh tranh bền vững, nhất là khi người tiêu dùng toàn cầu ngày càng ưu tiên sản phẩm chất lượng cao, bền vững và an toàn. Cùng với đó, ngành cũng cần đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ trong nuôi trồng - chế biến, đồng thời tăng cường thương hiệu quốc gia thông qua các kênh ẩm thực cao cấp và thương mại điện tử là chìa khóa để củng cố năng lực cạnh tranh dài hạn.