Trong những định hướng phát triển thì chuyển đổi cây trồng hiệu quả, thích ứng với biến đổi khí hậu là một trong 3 chiến lược lớn để thúc đẩy phát triển kinh tế và nâng cao thu nhập cho người dân nơi đây. Đồng thời, các địa phương cũng tăng cường xúc tiến thương mại, kết nối với các doanh nghiệp để tạo đầu ra bền vững cho sản phẩm.
Hiểu rõ đất để chuyển đổi sản xuất
Chuyển đổi cây trồng trên đất lúa kém hiệu quả để mang lại giá trị kinh tế cao luôn là điều người dân đồng bằng sông Cửu Long mong muốn. Tuy nhiên, việc chuyển đổi cây trồng vốn không phải điều dễ dàng, bởi cây trồng muốn phát triển tốt phụ thuộc nhiều yếu tố như: đất, nước, không khí, giống và sự hiểu biết của người dân trong quá trình chăm sóc.
Theo Tiến sỹ Châu Minh Khôi, Trưởng Bộ môn khoa học đất, Khoa sinh học ứng dụng, Đại học Cần Thơ, hiện nay Đồng bằng sông Cửu Long đang chuyển đổi sản xuất rất mạnh, vì điều kiện tự nhiên có sự thay đổi trong mười năm trở lại đây. Tuy nhiên, không phải khu vực nào cũng có thể chuyển đổi thuận lợi. Bởi khu vực này vốn sản xuất lúa từ lâu đời, hạt phù sa được nén chặt ở tầng phía dưới.
Hơn nữa, trong quá trình hình thành vùng trũng, nơi đây đã tích lũy sắt, lưu huỳnh thành vật liệu phèn dưới tầng sâu của đất. Khi nông dân chuyển đổi từ đất ruộng lên đất vườn hay đất liếp trồng rau màu, cây ăn trái đã vô tình đưa đất tầng sét, phèn lên phía trên. Hơn nữa, do cách thức làm đất liếp (lên luống đất) không phù hợp nên tầng đất mặt thay vì giúp cho cây ăn trái phát triển thì lại bị nén chặt, sét cao, chất hữu cơ ít,…
Chính vì vậy, theo Tiến sỹ Châu Minh Khôi, người dân Đồng bằng sông Cửu Long muốn chuyển đổi cây trồng hiệu quả phải tìm hiểu kĩ từng tầng đất, đặc điểm đất thích hợp với từng loại cây để sản xuất mang lại hiệu quả cao. Ví dụ, một số vườn cây có múi ở Đồng bằng sông Cửu Long mang sẵn mầm bệnh vàng lá gân xanh (Greening) nếu gặp môi trường thuận lợi có thể chống chịu được ít năm, nhưng khi gặp môi trường bất lợi, ẩm ướt, rễ không phát triển, cây không hấp thu được dinh dưỡng, sẽ đổ bệnh chết rất nhanh.
Do đó, theo Tiến sỹ Châu Minh Khôi, với đất vườn chuyển đổi từ đất ruộng sang trồng cây ăn trái cần có kế hoạch khảo sát đánh giá tính thích nghi. Vùng thuận lợi phát triển vườn cây ăn trái, tầng canh tác dày, tầng phèn sâu, khi lên liếp chỉ cần bổ trợ một phần hữu cơ cho đất. Quan trọng nhất là cải tạo liếp vườn cho cây ăn trái có hữu cơ, vôi… trộn với đất ban đầu tạo nền tảng.
Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường, thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP thời gian qua Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ưu tiên tập trung tổ chức triển khai 4 lĩnh vực then chốt gồm: xây dựng chương trình tổng thể phát triển nông nghiệp bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu gắn với xây dựng nông thôn mới vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Hai là, phát triển thủy lợi vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Ba là, phòng chống xói lở bờ sông, bờ biển, phòng chống thiên tai. Bốn là, nghiên cứu, chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi thủy sản thích ứng với biến đổi khí hậu của vùng.
Trước Nghị quyết 120/NQ-CP, trong 3,2 triệu ha đất nông nghiệp của vùng, có 1,82 triệu ha đất lúa, 860.000 ha nuôi trồng thủy sản, 385.000 ha cây ăn trái. Sau khi triển khai nghị quyết, diện tích trồng trái cây đã tăng lên 450.000 ha, diện tích nuôi trồng thủy sản đã lên trên 900.000 ha, diện tích lúa giảm còn 1,7 triệu ha, diện tích lúa 3 vụ cũng giảm. Với sự chuyển đổi này, sản xuất và xuất khẩu nông sản Việt Nam đã có sự thay đổi rõ rệt, đời sống người sản xuất có cải thiện hơn so với trước đây.
Cụ thể, trong năm 2016, kim ngạch xuất khẩu của vùng đồng bằng sông Cửu Long chỉ đạt được 7 tỷ USD. Tuy nhiên, sau khi thực hiện chuyển đổi sản xuất, kim ngạch xuất khẩu của khu vực đồng bằng sông Cửu Long đã lên đến con số 8,8 tỷ USD trong năm 2020. Điều này cho thấy, việc chuyển hướng thuận thiên không những đúng hướng mà còn hiệu quả.
Mở rộng kênh tiêu thụ
Các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời gian qua đã và đang tích cực tìm hướng đi cho nông dân trong chuyển đổi cây trồng trên đất lúa kém hiệu quả. Điển hình tại thành phố Cần Thơ, toàn thành phố có 220.000 ha sản xuất lúa. Tính đến cuối năm 2020, Cần Thơ đã chuyển đổi hơn 10.000 ha diện tích sản xuất lúa kém hiệu quả sang các loại cây trồng khác như cây ăn trái, mè (vừng).
Theo chị Phan Thị Hiệu (phường Thới Thuận, quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ), gia đình chị có hơn 1ha trồng lúa 3 vụ, nhưng chỉ có vụ Đông Xuân và Thu Đông cho năng suất cao, có lãi, còn vụ Xuân Hè lãi rất ít. Vì vậy, gia đình chị đã chuyển vụ lúa Xuân Hè sang trồng vừng đen.
Với vụ đầu, năng suất đạt 1,5 tấn/ha, giá bán khoảng 32.000 đồng/kg, gia đình chị đã thu lãi 30 triệu đồng/ha, gấp 6 lần so với lúa. Về sau, khi thị trường vừng đen khan hiếm, giá tăng lên từ 60.000 đồng đến 70.000 đồng/kg. Do đó, chị Hiệu đã quyết định chuyển sang trồng 2 vụ lúa/năm, vụ Xuân Hè chỉ trồng vừng để tăng thu nhập.
Ông Nguyễn Sĩ Lâm, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang cho biết, tại tỉnh An Giang, thực hiện theo Nghị quyết 120/NQ-CP, tính đến cuối năm 2020, tỉnh đã thực hiện đẩy mạnh chuyển đổi cây trồng. Toàn tỉnh đã chuyển hơn 31.000 ha diện tích sản xuất lúa kém hiệu quả sang trồng khác, trong đó có 1.300 ha cây ăn trái như xoài (chiếm gần 82% diện ích chuyển đổi), sầu riêng, mãng cầu, mít, nhãn và các loại cây có múi, còn lại là sản xuất rau, hoa màu.
Tuy nhiên, mặc dù là việc chuyển đổi sản xuất trên đất lúa kém hiệu quả sẽ mang lại giá trị kinh tế cao cho người sản xuất, nhưng các sản phẩm này phải được đảm bảo đầu ra thì hiệu quả này mới phát huy tác dụng lâu dài. Do đó, việc khó trong chuyển đổi cây trồng trên đất lúa kém hiệu quả chính là nguồn tiêu thụ sản phẩm cho nông dân.
Theo ông Nguyễn Sĩ Lâm, hiện Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang đang phối hợp với Sở Công Thương An Giang kêu gọi các doanh nghiệp, hợp tác xã mở rộng kênh tiêu thụ và liên kết với nông dân để khâu sản xuất cây trồng trên diện tích chuyển đổi phát huy được hiệu quả. Bởi những diện tích chuyển đổi này giúp cân bằng nguồn thực phẩm để phục vụ cho nhu cầu người tiêu dùng ngày càng đa dạng và giá trị cao hơn cây lúa.
Xác định được vai trò quan trọng của đơn vị tiêu thụ, các hợp tác xã của các tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long cũng đã chung tay để kế hoạch sản xuất vì sự phát triển chung được hoàn thiện. Ông Nguyễn Đức Phương, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã thành phố Cần Thơ chia sẻ: "chúng tôi đã giới thiệu các hợp tác xã tham gia Đề án xây dựng Hợp tác xã sản xuất gắn với chuỗi giá trị của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, với tổng giá trị trên 100 tỷ đồng, thu hút các Hợp tác xã và người sản xuất tham gia, giúp người sản xuất tiếp cận được kênh tiêu thụ và liên kết với các kênh này lâu dài".
Ngoài ra Liên minh Hợp tác xã thành phố còn tổ chức cho hợp tác xã tham gia quảng bá giới thiệu sản phẩm tại các hội chợ trong và ngoài thành phố; đồng thời, tham gia trưng bày, giới thiệu sản phẩm Hợp tác xã tại tầng trệt trụ sở của đơn vị… nhằm giúp Hợp tác xã tìm kiếm, kết nối tiêu thụ sản phẩm cho thành viên.
Theo Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, đến nay, cả nước có 271 tổ chức khoa học, gần 600.000 hộ nông dân, hơn 4.000 hợp tác xã nông nghiệp tham gia liên kết với doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Trong đó, 56 địa phương đã ban hành chính sách khuyến khích liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; 48 địa phương ban hành danh mục các ngành hàng, sản phẩm chủ lực quan trọng cần khuyến khích liên kết; 35 địa phương ban hành phân cấp phê duyệt hỗ trợ liên kết, 16 địa phương phê duyệt đề án, dự án liên kết với 359 dự án được phê duyệt. Tất cả các chính sách này đều nhằm mục tiêu hỗ trợ người sản xuất và doanh nghiệp có thể tìm thấy nhau trong quá trình sản xuất và tìm kiếm nguồn hàng chất lượng, phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng, xuất khẩu.
Như vậy, có thể thấy, bằng sự góp sức của các hợp tác xã, tổ hợp tác, chưa kể đến sự tham gia của các doanh nghiệp, tổ chức thương mại,… người dân Đồng bằng sông Cửu Long có thể an tâm trong chuyển đổi cây trồng, nâng cao giá trị kinh tế.